jeudi 14 mars 2013

hải quan


"Hải quan" là một từ thuộc loại "đồng hóa", tức là mang gốc tiếng Hoa hǎi guān 海关(海關), kể từ năm 1975, đã nhất loạt thay thế cho cách nói tương đương của người miền Nam cũ: sở quan thuế (xem bảng từ vị tiếng Việt 1975).


Dưới thời thực dân Pháp, cơ quan này có tên là "nhà Đoan" (tiếng Pháp: la douane).

Vào những năm 1930, người ta kể rằng (1): Anh chàng thư ký nhà Đoan tên Diệu trở thành nhà thơ Xuân Diệu, người tình muôn thuở của thi ca Việt Nam.

Sau đó, theo trạm mạng Internet "Hải Quan Việt Nam" (2): Ngày 10 tháng 9 năm 1945, Bộ tr­ưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thừa uỷ quyền của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hoà ký Sắc lệnh số 27 - SL thành lập "Sở thuế quan và thuế gián thu", khai sinh Hải quan Việt Nam. 

Gần hai chục năm sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, lúc trở về thăm Việt Nam, tôi còn nhớ bị nhân viên kiểm soát hạch họe sổ thông hành ở sân bay Tân Sơn Nhứt. Đó là lần đầu tiên tôi mới biết: những người này là "Hải quan" kiểm tra "hộ chiếu". Hồi đó, thủ tục hành chánh còn rất chậm chạp, đợi lâu cả tiếng đồng hồ mới qua "cửa ải". Trong khi đứng nối đuôi chờ tới phiên mình, tôi cứ thậm thụt, bỏ vô - rút ra tờ 10 US dollars kẹp trong sổ thông hành. Bỏ vô: vì nghe người ta khuyên nên để tiền đút lót cho nhân viên hải quan để được cứu xét mau chóng. Rút ra: vì có người dọa, nếu hối lộ, có thể mang tội lũng đoạn quan chức Nhà nước.




Sau ba mươi tám năm dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, ngày nay người ta vẫn mãi đọc thấy những hàng chữ tương tự như sau (3):
 
Quan thuế có biết ngượng! Đất nước đang trải qua thời kỳ hết sức khó khăn, nguồn vốn ngân sách đầu tư cho phát triển KT-XH đang rất thiếu thốn. Vậy nên mỗi cán bộ ngành thuế cần phải thấy có lỗi với nhân dân, với đất nước vì đã không làm tròn bổn phận, trách nhiệm và nghĩa vụ.



Ghi chú:








Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.