Rechercher dans ce blog

samedi 8 septembre 2012

bảng từ vị tiếng Việt 1975



Bảng này tiếp tục cập nhật những từ ngữ, tạm gọi là «tiếng Việt 1975».

Thời điểm 1975 là một mốc quan trọng, ghi dấu những biến hóa tất nhiên sau một biến cố lịch sử, đồng thời mang lại nhiều xáo trộn lớn trong ngôn ngữ Việt Nam. Thực vậy, kể từ 30 tháng 4 năm 1975, hàng loạt từ ngữ mới ồ ạt xâm nhập tiếng nói người dân miền Nam cũ. «Mới» ở đây là: về hình thức (những từ này hầu như chưa hề có mặt trước đó ở miền Nam) hoặc về nội dung (những từ này người miền Nam cũ đã biết, nhưng ý nghĩa của chúng đã biến đổi rất nhiều).



Tùy theo đặc tính, ta có thể phân loại các từ «tiếng Việt 1975» như sau:

1)  Từ chuyên chính xã hội chủ nghĩa, gọi vắn tắt là «từ chuyên chính»: đó là những từ tiếng Hoa 100%, tuân theo mô hình tổ chức xã hội chuyên chế Trung Quốc. Nguồn gốc của những từ này là do cấp lãnh đạo và cán bộ được đào tạo theo đường lối cách mạng cộng sản Trung Quốc rồi đem áp đặt trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ năm 1975. Thí dụ: xử lý, cải tạo, đăng ký.
2) Từ đồng hóa: đó cũng là những từ tiếng Hoa 100%, mặc dù không mang lại một khái niệm hoặc đáp ứng một nhu cầu ngôn ngữ nào mới, bỗng nhiên ồ ạt thay thế những cách nói tương đương sẵn có ở miền Nam cũ, theo chiều hướng đồng hóa tiếng Việt với tiếng Hoa. Thí dụ: X-quang, khẩn trương, bức xúc, nội y, ngoại hình.
3) Từ độc tôn: đó là những từ, không có gốc Hoa 100% như loại "đồng hóa" ở trên, nhưng rất thông dụng ở miền Bắc, được đem ưu tiên thay thế cho những từ tương đương sẵn có ở miền Nam trước. Nhà nước như có chủ trương xóa bỏ những dấu vết tiếng nói của chế độ cũ. Chẳng hạn, hai chữ "xe hơi" càng ngày càng ít được dùng, và người ta thường chỉ còn nói và viết hai chữ "ô tô".
4) Từ tạp chế: đó là những từ ghép một {thành phần chữ Hoa} với một {thành phần gốc Hoa hoặc không phải gốc Hoa}, và nhiều khi không tuân theo ngữ pháp tiếng Việt gì cả. Thí dụ: da liễu, cẩu ngoại, bếp trưởng, cáp quang.
5) Từ biến nghĩa: đó là những từ (gốc tiếng Hoa hay không phải gốc tiếng Hoa) mà nội dung đã biến đổi,  bao hàm một ý nghĩa hoàn toàn khác lạ. Thí dụ: đại gia, chân dài, cơm trắng.
6) Từ mới tạo: đó là những từ không thuộc vào 5 loại trên, do nhu cầu tự nhiên phải thích ứng với biến hóa trong xã hội mà được tạo nên.


***


tiếng Việt 1975
phân loại
Hoa ngữ
phân tích
ghi chú
bếp trưởng
4) tạp chế



bức xúc
2) đồng hóa
逼蹙

ca từ
2) đồng hóa
歌詞

cải tạo
1) chuyên chính
改造


cẩu ngoại
4) tạp chế


cẩu tặc
4) tạp chế


chân dài
4) biến nghĩa


chất lượng
2) đồng hóa
質量

chức năng
2) đồng hóa
質量

cơm trắng
5) biến nghĩa


da liễu
5) tạp chế


đả nữ
2) đồng hóa
打女

đại gia
5) biến nghĩa
大家

đáp án
2) đồng hóa
答案


giản đơn
2) đồng hóa
简单

hải quan
2) đồng hóa
海关

hộ chiếu
2) đồng hóa
护照

hộ khẩu
1) chuyên chính
戶口

khẩn trương
2) đồng hóa
緊張

kỹ năng mềm
6) từ mới tạo

tiếng Anh: soft skills
ngoại hình
2) đồng hóa
外形

nhất trí
2) đồng hóa
一致


nội y
2) đồng hóa
內衣

ô tô
3) độc tôn

thay cho "xe hơi"
phản cảm
2) đồng hóa
反感


phần mềm
6) từ mới tạo

tiếng Anh: software
phụ kiện
2) đồng hóa
附件

phục vụ
2) đồng hóa
服務

siêu
2) đồng hóa
cùng loại: siêu mẫu, siêu xe
sở hữu
2) đồng hóa
所有


sự cố
2) đồng hóa
事故

sự kiện
2) đồng hóa
事件

tập đoàn
1) chuyên chính
集團


tham quan
2) đồng hóa
參觀

trình duyệt
6) từ mới tạo


tiếng Anh: browser
Việt dịch
2) đồng hóa
越譯

vô tư
5) biến nghĩa


X-quang
2) đồng hóa
X-

xử lý
1) chuyên chính
處理

xử trí
2) đồng hóa
處置







2 commentaires:

  1. Ce commentaire a été supprimé par l'auteur.

    RépondreSupprimer
    Réponses
    1. 1) Bếp trưởng: Trước 1975 có từ "trưởng lớp" thay vì "lớp trưởng". Vậy mình có thể gọi là "trưởng bếp" không? Đành rằng cũng là gồm hai chữ "trưởng" (tiếng Tàu) và chữ "bếp" (tiếng Việt). Nhưng "trưởng bếp" theo cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt (thí dụ: chủ nhà), còn "bếp trưởng" theo ngữ pháp tiếng Hoa (thí dụ: gia chủ).
      Bàn về tiếng Việt như trên blog này, thực ra không phải cứ phải khư khư không chịu thích ứng với sự biến hóa tự nhiên của mọi tiếng nói.
      Điều nhận thấy đáng tiếc nhất là khuynh hướng (từ lâu ở miền Bắc, từ 1975 ở miền Nam) rập khuôn tiếng Hoa theo xã hội chuyên chế Trung Quốc.
      Lịch sử VN cho thấy những thời kì có tinh thần tự chủ cao (nhà Trần, nhà Lê, vua Quang Trung Nguyễn Huệ, v.v.) thì tiếng quốc âm (chữ Nôm) được coi trọng.
      2) Giáo viên: Hồi trước 1975, ở VN đã dùng "giáo viên" rồi thì phải. Nhưng cũng thường nói: thầy giáo, cô giáo.

      Supprimer

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.