Rechercher dans ce blog

vendredi 21 novembre 2014

... nàng về lầu trang


Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chàng về viện sách nàng dời lầu trang.

(Truyện Kiều, http://xem-nom-thuy-kieu.blogspot.fr/2013/01/0361-0372.html)

Viện sách là do từ chữ Hán thư viện, nghĩa là: phòng học, thư phòng.
Cũng vậy, lầu trang là do từ chữ Hán trang lâu: nghĩa là khuê phòng, chỗ ở của phụ nữ. Như trong hai câu thơ của Liễu Vĩnh 柳永:
Nhật cao hoa tạ lãn sơ đầu, Vô ngữ ỷ trang lâu
日高花榭懶梳頭, 無語倚妝樓 (Thiếu niên du 少年游)
Mặt trời trên cao ở đài hoa biếng chải đầu, Lặng lẽ dựa lầu trang.
 

Đã từ lâu, tiếng Việt vay mượn Hán ngữ rất nhiều, dùng chữ y hệt như người Hán. Thí dụ (1): thư viện, khuê phòng.
 

Nhưng cũng có nhiều trường hợp, người Việt nói hơi khác đi theo ngữ pháp tiếng Việt. Thí dụ (2): viện sách, lầu trang.
 

Đó là do ảnh hưởng tự nhiên trong mọi ngôn ngữ loài người.
 

Tuy nhiên, ở miền Nam Việt Nam từ 1975 trở đi, người ta nhận thấy bỗng tràn ngập trong tiếng Việt những từ ngữ chữ Hán theo đúng như cách nói (khác xưa) của chính người Trung Quốc cộng sản.

Những từ ngữ chữ Hán này có thể xếp vào 3 loại như sau (*):

1) hoặc đã có mặt trong tiếng Việt, nhưng trước đó rất ít dùng và ngày nay nghe ra rả điếc cả tai. Thí dụ: sự cố, hoành tráng, hiện đại, v.v.
2) hoặc đã có mặt trong tiếng Việt, nhưng từ 1975 trở đi, được sử dụng với những ý nghĩa biến đổi khác hẳn. Thí dụ: xử lí, kinh điển, khẩn trương, đại gia, v.v.
3) hoặc chưa hề có mặt trong tiếng Việt, nhưng bỗng ồ ạt xâm lấn đầy dẫy trên báo chí, sách vở, trên mạng Internet, lan tràn đến cả những cách nói của người Việt tránh nạn cộng sản ở nước ngoài. Thí dụ: tham quan, hộ chiếu, hải quan, ca từ, X-quang,  đăng kí, hộ khẩu, v.v.
 

Điều đáng chú ý là những từ này không mang lại những khái niệm gì mới. Vì trước đó, trong tiếng Việt đã có những cách diễn tả tương đương, dù có vay mượn hay không vay mượn từ Hán ngữ.
 

Sự kiện này không thể coi như biến hóa tự nhiên về ngôn ngữ. Những từ mới áp đặt này chỉ có mục đích xóa bỏ dấu vết văn hóa lâu đời của Việt Nam và rập khuôn theo chế độ chuyên chế Trung Quốc.

Qua hiện tượng này, Nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa đã tỏ ra đồng lõa và làm tay sai cho ngoại bang tiến hành chủ trương xâm lược đất nước mình qua ngả tiếng nói, cùng lúc với những hình thức xâm lăng khác: về kinh tế, quân sự, v.v.



Ghi chú:

(*) Xem thêm:
kinh điển 
hiện đại
sự cố 
hoành tráng 
đại gia
khẩn trương 
v.v.




mardi 26 août 2014

XHCN






X H C Nờ: bốn chữ cái latin nói tắt của Xã Hi Ch Nghĩa. Nhà nước gọi đủ là Cng Hòa Xã Hi Ch Nghĩa Vit Nam.

Đó là lối đặt tên bảo hoàng hơn vua. Vì ngay cả quan thầy của họ, tức là Trung Quốc, vẫn giữ, từ năm 1949, cái tên Trung Hoa Nhân Dân Cng Hòa Quc.
 
Bàn về bốn chữ này, nói theo nhà Phật, quả là "bất khả tư nghị" không thể nghĩ bàn. Vì chữ đi một đàng, nghĩa về một nẻo.

Xã hội gì? Đi gia bạc tỉ dollars phè phỡn, dân có người ăn xin bát cơm trắng.

Chủ nghĩa gì? Dollars xanh thơm hơn mùi mít, cờ đỏ (*)  nồng tanh mùi máu.

Vào những năm 1990, hàng loạt các quốc gia khối mác-xit lê-nin sụp đổ thảm thương. Chỉ có Nhà nước Việt Nam (và vài quốc gia cuối cùng trên thế giới) vẫn khăng khăng một mực nhắm định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hai năm vừa qua, ở Việt Nam ồn lên một dạo, có một số người kêu gọi lấy lại cái tên nước cũ Vit Nam Dân Ch Cng Hòa (miền Bắc thời đó) do Hồ Chí Minh thành lập từ ngày 2 tháng 9 năm 1945.
 
Than ôi! Đổi tên này làm tên nọ, có nghĩa gì đâu. Nếu bản chất của chế độ <nguyễn y vân = vẫn y nguyên>.

Cách ngôn quốc gia (devise nationale) của nước Pháp là: Liberté, égalité, fraternité.

Nhớ ông thầy dạy Pháp văn của tôi năm đệ tứ (trung học) kể chuyện học sinh làm "kháng chiến" thời Pháp đô hộ Việt Nam, đọc câu đó như sau:

Liberté: point, égalité: point, fraternité: point!

Cũng như cái câu cách ngôn quốc gia Việt Nam, có từ thời 1945 vẫn giữ lại cho đến bây giờ:

Đc lp: không, t do: không, hnh phúc: không!

XHCN: Xạo Hết Chỗ Nói.



(*) Bài đọc thêm
Hng qun

...Qun đã đ t khi trăng là nguyt
Kinh là kỳ vi bao ni tân toan
T x s đng cay thu đu chết
Bước dã man su xé lá gieo vàng.

Lá s đ t da vàng mũi tt
Môi là mm hoa mt mc quanh môi
T b cõi chia xương chua là ngt
Trút lang thang t nát mng lên tri.

Mng s đ t hoa đêm gho chc
Cánh thay hng t cánh đ cung điên
T thung lũng mù kêu mưa gi móc
Ti phiêu du t vng nht qua min...

Lá Hoa Cn
(Bùi Giáng, Mùi Hương Xuân Sc, Phú Vang xut bn)




dimanche 25 mai 2014

kinh điển


"Nhng trò chơi kinh đin ngày xưa."

Mới đọc cái nhan đề này trên mạng Internet, không khỏi lấy làm khó hiểu.


Trước đây chỉ nghe nói tới kinh điển nhà Nho hay kinh điển Phật giáo chẳng hạn. Bài báo kể ra những trò chơi đã có từ xưa và trẻ em bây giờ còn ưa thích: trò chơi bắn bi, trò chơi ném lon, trò chơi cắt lá chuối giả làm thành đồ vật, v.v. 


"Ném lon kinh điển đây rồi, trò lê lết bùn đất, quần áo bẩn..."

Thoạt đầu tôi nghĩ có lẽ người viết báo chỉ là nạn nhân của bệnh thích dùng chữ Tàu, mà nhiều khi không hiểu rõ ý nghĩa là gì. Bệnh này rất phổ biến từ sau 1975 ở khắp miền non nước: hậu quả của ý đồ Nhà nước muốn đồng hóa tiếng Việt với tiếng Hoa.

Nhưng khi gõ hai chữ "kinh đin" tìm trên www.google.com, mới hay cách dùng hai chữ này hình như rất "chính quy" và tràn lan như nấm:

  1. Những trò chơi kinh đin ngày xưa.
  2. 50 bản nhạc Không Lời Kinh Đin Mọi Thời Đại.
  3. Chàng Trai Với Những Bước Nhảy Kinh Đin.
  4. Cách giải bài toán vô cơ kinh đin - 123doc.Vn
  5. Kinh đin Pali - Đạo Phật Ngày Nay.
  6. Phim Kinh đin hay - Xem phim Kinh đin mới nhất.


Trong thí dụ (1), (trò chơi) "kinh đin" có lẽ muốn nói là "c truyn" hay "truyn thng".

Thí dụ (2) nói về âm nhạc "c đin" (tiếng Pháp: musique classique) của Mozart, Beethoven...

Thí dụ (6) nói về những phim "kinh đin":
  • Trailer phim "Cuốn theo chiều gió".
  • "Casablanca" - tình yêu còn mãi với thời gian.
  • "Ngọa hổ tàng long" thành phim kinh đin. 
  • Universal phục chế phim kinh đin nhân kỷ niệm 100 năm.

Trong những thí dụ (3), (4) và (6), người Việt ta không hiểu hai chữ "kinh đin" mang ý nghĩa gì.

Theo Quốc Ngữ Từ Điển 國語辭典 (Taiwan):

經典 kinh điển 
(1) Kinh thư. ◇Tấn Thư : Mỗi đại sự cập nghi nghị, triếp tham dĩ kinh điển xử quyết, đa giai thi hành , , (Lí Trọng truyện ).(2) Điển tịch tông giáo. ◇Bạch Cư Dị : Phật niết bàn hậu, thế giới không hư, duy thị kinh điển, dữ chúng sanh câu , , , (Tô Châu Trùng Nguyên tự Pháp Hoa viện thạch bích kinh bi văn ). 
(3) Hình dung chế tác hay đẹp, có thể lưu truyền lâu dài, trở thành khuôn mẫu cho đời sau. ◎Như: kinh điển văn học tác phẩm

Như vậy, những chữ "kinh điển" <trong các thí dụ (3), (4) và (6)> là dùng định nghĩa thứ ba theo từ điển Hán ngữ.

Than ôi, phải coi từ điển Hán ngữ mới mong hiểu được nhiều tiếng Việt bây giờ (kể từ 1975).


Li bàn "tiếng Vit"

(2014-06-14)

Hôm nay đọc được mấy tờ quảng cáo trong một tiệm tạp hóa người Tàu chứng tỏ lối nói "đồng hóa", thường gặp trong "tiếng Việt 1975" như: "kinh điển", "giản đơn"..., không phải là chuyện "tình cờ".


经典韩国料理 kinh điển Hàn Quốc liệu lí
简箪美未食谱 giản đan mĩ vị thực phổ


Cái lối nói "rập khuôn tiếng Tàu" này của Nhà nước XHCN hẳn là làm theo ý đồ rộng lớn (kinh tế, văn hóa, quân sự) của Trung Quốc, như tằm ăn dâu, đã từ lâu nhằm nuốt chửng Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

T đin tiếng Vit , Vin Ngôn Ng Hc, Nhà xut bn Đà Nng, 2003.





Hán Vit T Đin, Đào Duy Anh, Nhà xut bn Minh Tân, 1931

cổ điển 古典

kinh điển 經典








mardi 20 mai 2014

thạch tín


Theo Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu, ở mục từ chữ 信 tín, định nghĩa thứ 7:

"Tên thứ đá độc, thạch tín 石信 tức thứ đá ăn chết người, sản ở Tín châu, ta thường gọi là nhân ngôn." (*)


Tên loại đá độc này (arsenic), Thiều Chửu đã ghi theo ngữ pháp tiếng Việt: "thạch tín" thay vì "tín thạch" 信石 như trong tiếng Hán.

Trong khi đó, dưới Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam, Nhà nước lại chủ trương cách nói và viết rất nhiều chữ Việt theo ngữ pháp tiếng Hoa. Thí dụ: X-quang, ca từ, Việt dịch.

Chẳng hạn, bây giờ người ta nói:

"Vào viện xin chụp X-quang", thay vì: "Vào bệnh viện xin rọi kiếng (quang tuyến X)".

"Trịnh Công Sơn là một phù thủy ca từ". Ghi chú: "Ca từ" nghĩa là "lời bài hát" theo cách nói xưa nay của người Việt Nam.

"Đọc Bình Ngô Đại Cáo Việt dịch của Trần Trọng Kim & Bùi Kỷ". Ghi chú: "Việt dịch" nghĩa là "dịch sang tiếng Việt".

Đành rằng, tiếng Việt vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm của Hán ngữ. Hậu quả của gần "một ngàn năm nô lệ giặc Tàu" chứ phải ít đâu!

Nhưng cố tình áp đặt từ ngữ tiếng Hoa vào trong tiếng Việt như vậy, từ mấy chục năm gần đây như ta đã thấy, đáng cho người dân phải lo ngại về ý đồ của Nhà nước ngày nay muốn đồng hóa tiếng Việt với tiếng Hoa.




Chú thích:

(1) "Nhân ngôn" ám chỉ chữ Tín , gồm chữ nhân bên trái và chữ ngôn bên mặt.



jeudi 15 mai 2014

một ngàn năm nô lệ giặc tầu



Đó là câu đầu trong bài hát "Gia tài của mẹ" của Trịnh Công Sơn.

tranh vẽ: Internet

Vào những năm 1965-1970, bài ca này đã làm rúng động tâm can quân dân miền Nam. Quá chán chường chiến tranh, khao khát hòa bình.


Thời kì đó, bài ca này có tác dụng như mưu kế của Lưu Bang (Hán) cho binh sĩ của mình hát dân ca nước Sở, làm dao động dữ dội tinh thần quân đội Hạng Vũ (Sở). Trong một trăm ngàn quân Sở, đã bỏ về quê hương gần hết, chỉ còn lại mấy trăm. Chiến dịch này, lịch sử Trung Quốc gọi là "Tứ diện Sở ca". Cuối cùng, quân Hán  toàn thắng ở Cai Hạ.


Nhưng sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, ở Việt Nam, người ta hầu như không còn muốn nghe bài ca "Gia tài của mẹ" nữa. Nếu không là đem ra đặt lời khác làm chuyện cười, thành bài "Gia tài của vợ" chẳng hạn:


Một trăm năm nô lệ vợ nhà
Một trăm năm nô lệ vợ ta
Hai mươi năm rửa chén giặt đồ
Gia tài của vợ để lại cho ta
Gia tài của vợ là khối việc nhà...


Tại sao vậy?


Người ta đã sớm nhận thấy một số bài hát của Trịnh Công Sơn, như bài "Huế-Sài Gòn-Hà Nội" hay bài "Gia tài của mẹ", chỉ là công cụ tuyên truyền cho Nhà nước cộng sản miền Bắc.


Trịnh Công Sơn được khen là "phù thủy ca từ". Chính vì thế mà ảnh hưởng của những lời ca này còn dữ dội hơn nữa. Sự việc Trịnh Công Sơn có phải là "bồi bút" cho nhà cầm quyền hay chỉ là nạn nhân ngây thơ của bộ máy tuyên truyền cộng sản, lịch sử sẽ còn phán xét.


Nhưng thời sự nóng bỏng đang diễn ra trong vụ tranh chấp biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam bỗng khơi lại câu hát trong bài "Gia tài của mẹ".


Người ta bỗng nhận thấy lời lẽ bài ca này thích ứng gần như hoàn toàn với tình huống Việt Nam ngày nay.


Chỉ khác một điều là: ngày trước nội dung bài ca nhắm vào chính quyền miền Nam trước 1975, thì ngày nay, những cái Trịnh Công Sơn tố cáo thời đó lại áp dụng vào chính Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa:


Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
(...)
Dạy cho con tiếng nói thật thà
Mẹ mong con chớ quên màu da
Con chớ quên màu da, nước Việt xưa
Mẹ mong trông con mau bước về nhà
(...)
Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
(...)
Gia tài của mẹ, một bọn lai căng
Gia tài của mẹ, một lũ bội tình. 


Trước đây, hai chữ "ngụy quyền", mà bộ máy tuyên truyền cộng sản Hà Nội đã gán cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trước 1975, thực ra là mượn từ Hán ngữ "ngụy chánh quyền".


Trong thời kì chiến tranh Trung Nhật, "ngụy chánh quyền" đặc chỉ chính quyền do Hán gian nắm giữ tại những vùng đất của Trung Quốc đã bị quân Nhật chiếm đóng.


Bây giờ, hai chữ "ngụy quyền" lại có thể dùng chỉ thẳng mặt Nhà nước Hà Nội năm 2014.

Đọc thêm:

bức dư đồ
ngụy quyền
anh là ai?
cách mạng








A-dong và Ê-va


Mt người Pháp, mt người M và mt người Vit Nam tranh lun xem Adam và Eva là ngui nước nào.

Adam và Eva (source: Internet)
Ngui Pháp: "Trn trung và try lc ngay truc mt Thượng đế như thế, ch có th là dân Pháp."

Ngu
i M: "Yêu t do đến mc l ra có th sng hnh phúc, ch cn đng đng đến trái táo, vy mà h vn không chu ni s cm đoán đó thì ch có th là dân Mỹ."

Ngu
i Vit Nam lúc y mi lên tiếng: "Qun áo chng có, nhà ca chng có, thm chí đến ăn mt trái táo cũng b cm, thế mà vn bo là sng trên thiên đưng thì ch là dân Vit Nam!"

(Ngun: Internet)

Li bàn "tiếng Vit"

Chuyn dân gian cười ra nước mt. Nhưng là s tht ... trn trung xã hi ch nghĩa (xo hết ch nói)!

jeudi 3 avril 2014

mùa xuân đầu tiên



My hôm nay tôi nghe đi nghe li bài Mùa Xuân Đu Tiên ca Văn Cao.

Bài này tôi nghe và thích đã lâu, t ln đu tiên my chc năm v trước.

Nghe nhc thy hay, trước hết là âm điu. Sau đó là li l ý nghĩa bài ca.

Âm điu bài này th hin ngay t câu đu: Ri dt dìu mùa xuân theo én v. Suốt cả bài, nhạc điệu cứ quấn quýt mãi trong tám kí hiệu này thôi.

Còn về lời lẽ thì là cả một bài thơ đẹp. Với vài ba điệp khúc trong vắt, đơn sơ, thắm thiết.

Nhưng một hôm tôi bỗng giật mình, vì chợt thấy mình không hiểu gì nữa cả.

Ngay c cái nhan đ bài hát cũng tht l lùng. Sao li đu tiên?

Nghe tiếp:

Mùa bình thường mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên

Thế nào là mùa bình thường? Thế nào là mùa vui? Sự thể gì đã xảy ra khiến cho: Mùa bình thường mùa vui nay đã về?

Mùa xuân của Văn Cao không có lá xanh hoa nở. Mà lại về cùng với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sôngmột trưa nắng vui.

A sau đây, nhạc sĩ thổ lộ cho ta biết đôi điều thầm kín:

Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh

Bao nhiêu năm qua các con lưu lạc phương nào mà hôm nay mới trở về gặp mẹ? Từ ngày đàn con ra đi, tóc mẹ còn xanh, mẹ từng giờ mơ ước ngày đoàn tụ. Bây giờ tóc mẹ đã trắng như bông, ngày mơ ước ấy lần đầu tiên đang đến rồi chăng. Mùa xuân vui. Vui quá sức chịu đựng đến nỗi nước mắt rơi lã chã, sưởi ấm đôi vai người phiêu dạt.

Ôi, khoảnh khắc thiêng liêng!

Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên
Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người

Tưởng như rõ ràng dễ hiểu quá rồi, phải không? Nhưng nghe đến đoạn sau cùng, tôi lại đâm ngờ:

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.

Nhà thơ muốn nói gì với chúng ta khi viết: Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu?


Con người nghệ sĩ tài hoa ấy, bị trù dập gần suốt cả cuộc đời sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm (1956), khi sáng tác bài Mùa Xuân Đầu Tiên này, năm 1976, muốn nhắc nhở điều gì với chúng ta?

Gần 40 năm đã trôi qua kể từ biến cố mùa xuân 30 tháng Tư năm 1975, càng lắng nghe bài nhạc của Văn Cao, tôi càng cảm nhận một tiếng buồn vô hạn, nức nở, khôn nguôi.

***

Phụ lục


Văn Cao (1923-1995)
 

Ri dt dìu mùa xuân theo én v
Mùa bình th
ường mùa vui nay đã v
Mùa xuân m
ơ ước y đang đến đu tiên
V
i khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
M
t trưa nng vui cho bao tâm hn.

R
i dt dìu mùa xuân theo én v
Ng
ười m nhìn đàn con nay đã v
Mùa xuân m
ơ ước y đang đến đu tiên
N
ước mt trên vai anh, git sưởi m đôi vai anh
Ni
m vui phút giây như đang long lanh.




Ôi gi phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đu tiên.
Ôi gi
phút trong tay anh đu tiên mt cuc đi êm m.
T
đây người biết quê người
T
đây người biết thương người
T
đây người biết yêu người.

R
i dt dìu mùa xuân theo én v
Mùa bình th
ường, mùa vui nay đã v.
Mùa xuân m
ơ ước y xưa có v đâu
V
i khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
M
t trưa nng thôi hôm nay mênh mông.

(1976)