Trong tinh thần tìm hiểu về những biến chuyển trong
tiếng Việt ngày nay (động lực chính của những trang blog
này), tôi muốn cho đăng lại một số bài văn chương chọn lọc, một phần như là một cách ghi mốc cho những đợt biến chuyển của ngôn ngữ Việt Nam. Tập tùy bút Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân đã để lại một dấu son đậm nét trong văn học. Đó cũng là lý
do tại sao những bài viết của Nguyễn Tuân đã được phổ biến trích dẫn khá nhiều trên mạng Internet.
Khi chép/dán lại bài "Một cảnh thu muộn" tìm được, dò lại theo bản in trên giấy (*) có sẵn, tôi nhận ra một vài khác biệt, nghĩ rằng đó chỉ là những bất cẩn thường gặp. Ba bốn bản tôi tìm được trên Internet,
nói chung gần như giống hệt nhau, có lẽ chỉ là chép/dán lẫn nhau. Nhưng đọc đến bài "Những chiếc ấm đất" đăng lại sau đây, tôi bỗng ngạc nhiên, vì phát
hiện ra một số sửa đổi quan trọng khi so sánh văn
bản in trên giấy — tạm gọi là "bản cũ", với những bản tìm thấy trên Internet,
— tạm gọi là "bản mới".
Hiện giờ, không biết những dòng chữ bị sửa đổi này (tô đỏ
trong blog) đã có từ năm nào và có phải do chính Nguyễn Tuân (đã tự ý hay bị ép buộc) thực hiện hay không?
Nói chung, những sửa đổi này, rất gượng gạo, không đáp ứng một nhu cầu văn chương nào rõ rệt, mà hình như chỉ nhằm mục đích xóa bỏ dấu vết của những tư tưởng gọi là "tiểu tư sản", "phong
kiến"... và đề cao "cách mạng vô sản".
Ghi chú:
(*) Nhà xuất bản Đại
Nam, P.O. Box 4279 GLENDALE, CA 91202, USA. Bản này chỉ là bản chụp lại của một nhà
in ở Saigon, không ghi tên,
với một trang cuối của nguyên bản cũ: "Giấy phép số 2310 BT/NT/NHK/QN cấp ngày 3-8-1968".
***
Những
chiếc ấm đất
Nguyễn Tuân
Sư
cụ chùa Đồi Mai
nhìn thấy
bóng
nắng đã đúng đỉnh đầu, thủng thẳng trở về trai phòng. Nhà sư già gỡ chiếc nón
tu lờ khỏi đầu, sắp ngồi vào thụ trai thì có tiếng con trẻ gọi ở ngoài cổng
chùa. Một chú tiểu lễ phép bước lên tam cấp:
— Bạch cụ, có người con trai cụ Sáu xin vào.
— Vậy chú vẫn đóng cửa chùa sao? Chú ra mở mau không có người ta phải đứng
nắng lâu. Cổng nhà chùa bao giờ cũng nên để ngỏ. Từ giờ chú nên nhớ: sáng sớm tụng
kinh nhật tụng và thỉnh chuông xong là phải mở rộng cửa chùa và tối đến, lúc
nào học xong kệ thì mới đóng. Kẻo nữa khách thập phương dị nghị.
Tiểu ra được một lát thì một người con trai trạc mười bảy tuổi xúng xính
trong chiếc áo dài thâm, chân séo lấm, tay bưng cái khay tiến vào tăng xá, vái
sư cụ:
— Bạch cụ thầy con cho con mang xuống biếu cụ bình trà đầu xuân. Và xin
phép cụ cho ra giếng chùa nhà gánh một gánh nước.
Nhà sư già đã quen với việc biếu và xin mượn này ở dưới cụ Sáu, khẽ cất tiếng
cười. Trên khuôn mặt khô xác, nụ cười không có gì là ấm áp, là thiết tha. Nó chỉ
đủ là hiền lành thôi.
— Thế cháu đựng nước bằng cái gì?
— Dạ, có người nhà quẩy nồi và gánh đi theo còn chờ ở ngoài.
— A Di Đà Phật! Nắng này mà đi từ làng trên xuống tận đây lấy nước, cụ Sáu nhà có công quá. Cháu ngồi nghỉ chân đã. Để già bảo chú tiểu đưa tên bộc ra giếng. Cháu đi từ sớm chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật.
— A Di Đà Phật! Nắng này mà đi từ làng trên xuống tận đây lấy nước, cụ Sáu nhà có công quá. Cháu ngồi nghỉ chân đã. Để già bảo chú tiểu đưa tên bộc ra giếng. Cháu đi từ sớm chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật.
— Bạch cụ, cháu ăn mặn ở nhà vẫn còn lửng dạ.
Sư cụ chùa Đồi Mai không nài thêm và vẫn chỉ cười rất thuần hậu.
— Cháu có biết cụ Sáu nhà đến xin nước ở chùa đây đã mấy năm nay rồi không?
Gần mười năm. Uống trà tàu như thầy cháu thì cũng có một. Cứ nước giếng chùa
đây mới chịu pha trà. Lắm lúc già tự hỏi về cái tiền thân của thầy cháu xem là
như thế nào? Nghĩ đến cái nhân duyên của thầy cháu với nhà chùa đây, thực cũng
là bền và kỳ lắm cháu ạ.
Thoáng thấy tên lão bộc đã quảy xong gánh nước đang ngơ ngác tìm mình và làm ướt cả khoảng giữa sân chùa lát toàn đá tảng xanh, người con cụ Sáu, với cái từ tốn của một thư sinh ngồi hầu chuyện bực phụ chấp đã xuất gia, liền vội vàng đứng dậy xin phép về.
Thoáng thấy tên lão bộc đã quảy xong gánh nước đang ngơ ngác tìm mình và làm ướt cả khoảng giữa sân chùa lát toàn đá tảng xanh, người con cụ Sáu, với cái từ tốn của một thư sinh ngồi hầu chuyện bực phụ chấp đã xuất gia, liền vội vàng đứng dậy xin phép về.
— Bạch cụ, cháu vội phải về, vì ở nhà hôm nay có khách uống trà. Có lẽ thầy
cháu ở nhà đang mỏi mắt chờ gánh nước.
Nhà sư già cũng vội theo bọn xin nước ra tới thềm ngoài. Sư cụ rút trong
tay áo vải rộng ra một chiếc quạt thước, xòe rộng hết cả nan quạt, nghiêng che
đầu cho đỡ nắng và bảo chú tiểu:
— Chú chạy mau ra vườn, bẻ mấy cành lá đào.
Rồi cụ giữ con cụ Sáu lại:
— Ấy, ấy, thong thả một chút. Thả mấy cành đào có lá vào nồi nước, lúc gánh
đi đường xa nó đỡ sóng ra ngoài và về đến nhà, nước vẫn mát.
Bọn
xin nước vái chào nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo
bước chân mau của tên lão bộc đánh rỏ xuống mặt
đường những hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Những hình sao ướt nối nhau trên một
quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài rắn.
Ví buổi trưa hè này là một đêm bóng trăng dãi lạnh lùng,
và ví cổng chùa Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi
vị một cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa động.
Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đốt mặt cánh
đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí bốc từ mặt đất và giống như vệt
khói nhờ nhờ, vờn qua những màu xanh bóng loáng của một dãy xóm làng cây cối im
lìm. Đứng trong cổng chùa từ bề cao nhìn xuống cái thấp dưới chân mình, nhà sư
già hấp háy cặp mắt, nhìn cái nắng sáng lòa. Bọn
người xin nước chỉ còn là mấy cái chấm đen, mỗi lúc cử
động lại làm tung lại phía sau mình một chùm cát bụi mờ mờ. Gió nồm thổi
mạnh nhiều cơn đã đem cả mảnh bụi trần kia vào lọt cổng ngôi chùa cao ráo. Nhà
sư nghĩ đến cụ Sáu, thở dài tỏ ý tiếc cho một kiếp chúng sinh còn vướng phải vòng nghiệp chướng.
Cụ
Sáu vốn đi lại với chùa đây kể ra đã lâu lắm, từ
trước cái hồi nhà sư già tới trụ trì. Mấy pho tượng Phật Tam Thế bằng gỗ mít đặt
ở trên bệ và mấy pho kinh in giấy đại thừa là của cụ Sáu cúng đã từ lâu. Cái chuông treo ở trên nhà phương trượng
cũng là của ông cụ Sáu cúng vào hồi trùng tu lại chùa đấy.
Và mỗi lần nhà chùa lập phả khuyến thì ông cụ Sáu đứng đầu sổ. Chùa Đồi Mai vốn ở xa làng mạc và biệt lập trên một khu đồi nên
cũng ít bị phiền nhiễu bởi đám tạp khách. Thỉnh thoảng trong bọn khách đến
chơi, ông cụ Sáu được sư cụ biệt đãi nhất. Độ một
tháng một lần, nhà sư già lại giữ ông cụ Sáu lại ăn một bữa cơm chay và lần nào
từ biệt, nhà sư cũng chân thành tặng khách một rò Chu Mặc
Lan. Thường thường mỗi lần gặp gỡ, thể nào hai ông già cũng kéo nhau ra
cái giếng nước chuyện vãn rất lâu. Nhà sư ít nhời thường hay trầm tĩnh ngắm bóng mình
trong lòng đáy giếng. Cái bóng nhà sư già ít khi được đậu hình cho lâu trên phiến
gương nước giếng mát lạnh: chốc chốc một vài giọt nước ngọt lại rời mạch đá tổ
ong, thánh thót rớt xuống, tiếng kêu bì bõm. Ông cụ Sáu tỳ tay vào thành giếng nhờn nhờn rêu xanh, chỉ ngón tay xuống lòng giếng sâu thăm thẳm đến gần hai
con sào và nói: "Chùa nhà ta có cái giếng
này quý lắm. Nước rất ngọt. Có lẽ tôi nghiện trà tàu vì nước giếng chùa nhà
đây. Tôi sở dĩ không đi đâu xa được, là vì không đem theo được nước giếng này đi để pha
trà. Bạch sư cụ, sư cụ nhớ hộ tôi câu thề này: Là giếng chùa nhà mà cạn thì tôi
sẽ lập tức cho không người nào muốn xin bộ đồ trà rất quý của tôi. Chỉ có nước
giếng đây là pha trà không bao giờ lạc mất hương vị. Mà bạch cụ, chúng tôi
không hiểu tại sao ngọn đồi này cao mà thủy lại tụ. Địa thế chùa này, xem ra
còn dụng võ được...". Chừng như sợ cụ Sáu bàn rộng tới những chuyện không
nên trao đổi với kẻ tu hành đã lánh khỏi việc của đời sống rồi, sư cụ vội nói lảng
sang chuyện mấy cây mít nhà chùa năm nay sai quả lắm và
kéo cụ Sáu vào trai phòng dùng một tuần nước. Theo một ước lệ rất đáng
yêu đặt ra từ ngày mới làm quen với nhau, đã mười năm nay, bao giờ uống nước
trà của nhà chùa, ông cụ Sáu cũng được cái vinh dự pha trà và chuyên trà thay chủ tự.
Dạo này, chắc ông cụ Sáu bận nhiều việc nên đã mấy tuần trăng rồi mà không
thấy vãn cảnh chùa uống nước thăm hoa, để cho sư cụ, cứ nhìn mấy chậu mặc lan giờ trổ hoa mà tặc lưỡi mỗi khi cùng bất đắc dĩ phải
ngắt cắm vào lọ con. Dạo này cụ Sáu chỉ cho người nhà xuống xin nước giếng
thôi. Và trưa hôm nay lúc lặng ngắm hai thầy trò
người con ông cụ Sáu đem nước ra khỏi chùa, lúc trở vào, nhà sư già thở dài
cùng sư bác chờ đấy:
— Ông cụ Sáu này, nếu không đam mê cái phong vị trà tàu, đam mê đến nhiều
khi lầm lỗi, nếu ông ta bỏ được thì cũng thành một ông sư tại gia. Danh và lợi,
ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái
phú quý nhãn tiền không bằng một ấm trà tàu. Nhưng một ngày kia, nếu không có
trà tàu mà uống nữa thì cái ông cụ Sáu này sẽ khổ đến bậc nào. Phật dạy rằng hễ
muốn là khổ. Biết đâu trong bốn đại dương nước mắt chúng sinh của thế giới ba
nghìn sau đây lại chẳng có một phần to nước mắt của một ông già năng lên chùa
nhà xin nước ngọt về để uống trà tàu. Mô Phật!
Ông
cụ Sáu, hôm nay lấy làm thích cái người khách lạ đó lắm. Vì người
khách vừa kể cho chủ nhân nghe một câu chuyện cổ tích. Lê trôn chén vào lợi chiếc
đĩa cổ vài ba lần, người khách kể:
"— Ngày xưa, có một tên ăn mày cổ quái. Làm cái nghề khất cái là phải cầm bằng rằng mình không dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn chọn lựa từng cửa rồi mới vào ăn xin. Hắn toàn vào xin những nhà đại gia thôi và cố làm thế nào cho gặp mặt được chủ nhân rồi có gì thì hắn mới xin. Có một hắn lần vào đến nhà giữa một nhà phú hộ kia giữa lúc chủ nhân cùng một vài quý khách đang ngồi uống trà buổi sớm. Mọi người thấy hắn mon men lên thềm, và ngồi thu hình ở chân cột một cách ngoan ngoãn, mọi người không nói gì cả, để xem tên ăn mày định giở trò gì. Hắn chả làm gì cả, chỉ nhìn mọi người khoan khoái uống trà. Hắn đánh hơi mũi, và cũng tỏ vẻ khoan khoái khi hít được nhiều hương trà nóng tản bay trong phòng. Thấy mặt mũi tên ăn mày đã đứng tuổi không đến nỗi bẩn thỉu quá, chủ nhân bèn hỏi xem hắn muốn xin cơm thừa hay canh cặn, hay là hơn nữa, hắn còn muốn đòi xôi gấc. Hắn gãi tai, tiến gần lại, tủm tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho phép hắn uống trà tàu với! Mọi người tưởng hắn điên. Nhưng tại sao không ai nỡ đuổi hắn ra và còn gọi hắn lại phía bàn cho hắn nhận lấy chén trà nóng. Hắn rụt rè xin lỗi và ngỏ ý muốn được uống nguyên một ấm trà mới kia. Hắn nói xong, giở cái bị ăn mày của hắn, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm. Thấy cũng vui vui và lạ lạ, mọi người lại đưa cho hắn mượn cả khay trà và phát than tàu cho hắn đủ quạt một ấm nước sôi, thử xem hắn định đùa với bọn họ đến bậc nào mới chịu thôi. Hắn xin phép đâu đấy rồi là ngồi bắt chân chữ ngũ, tráng ấm chén, chuyên trà từ chén tống sang chén quân, trông xinh đáo để. Lúc này không ai dám bảo hắn là ăn mày, mặc dầu quần áo hắn rách như tổ đỉa. Uống một chén thứ nhất xong, uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo nheo mắt lại, chép môi đứng dậy, chắp tay vào nhau và thưa với chủ nhân: "Là thân phận một kẻ ăn mày như tôi được các ngài cao quý rủ lòng thương, thực kẻ ty tiện này không có điều gì dám kêu ca lên nữa. Chỉ hiềm rằng bình trà của ngài cho nó lẫn mùi trấu ở trong. Cho nên bề dưới chưa lấy gì làm khoái hoạt lắm". Hắn lạy tạ, tráng ấm chén, lau khay hoàn lại nhà chủ. Lau xong cái ấm độc ẩm của hắn, hắn thổi cái vòi ấm kỹ lưỡng cất vào bị; thế rồi xách nón, xách gậy, vái chủ nhân và quan khách xong, xách gậy tập tễnh lên đường. Mọi người cho là một thằng điên không để ý đến. Nhưng buổi chiều hôm ấy cả nhà đều lấy làm sợ tên ăn mày vì ở lọ trà đánh đổ tung vãi ở mặt bàn, chủ nhân đã lượm được ra đến mươi mảnh trấu."
"— Ngày xưa, có một tên ăn mày cổ quái. Làm cái nghề khất cái là phải cầm bằng rằng mình không dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn chọn lựa từng cửa rồi mới vào ăn xin. Hắn toàn vào xin những nhà đại gia thôi và cố làm thế nào cho gặp mặt được chủ nhân rồi có gì thì hắn mới xin. Có một hắn lần vào đến nhà giữa một nhà phú hộ kia giữa lúc chủ nhân cùng một vài quý khách đang ngồi uống trà buổi sớm. Mọi người thấy hắn mon men lên thềm, và ngồi thu hình ở chân cột một cách ngoan ngoãn, mọi người không nói gì cả, để xem tên ăn mày định giở trò gì. Hắn chả làm gì cả, chỉ nhìn mọi người khoan khoái uống trà. Hắn đánh hơi mũi, và cũng tỏ vẻ khoan khoái khi hít được nhiều hương trà nóng tản bay trong phòng. Thấy mặt mũi tên ăn mày đã đứng tuổi không đến nỗi bẩn thỉu quá, chủ nhân bèn hỏi xem hắn muốn xin cơm thừa hay canh cặn, hay là hơn nữa, hắn còn muốn đòi xôi gấc. Hắn gãi tai, tiến gần lại, tủm tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho phép hắn uống trà tàu với! Mọi người tưởng hắn điên. Nhưng tại sao không ai nỡ đuổi hắn ra và còn gọi hắn lại phía bàn cho hắn nhận lấy chén trà nóng. Hắn rụt rè xin lỗi và ngỏ ý muốn được uống nguyên một ấm trà mới kia. Hắn nói xong, giở cái bị ăn mày của hắn, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm. Thấy cũng vui vui và lạ lạ, mọi người lại đưa cho hắn mượn cả khay trà và phát than tàu cho hắn đủ quạt một ấm nước sôi, thử xem hắn định đùa với bọn họ đến bậc nào mới chịu thôi. Hắn xin phép đâu đấy rồi là ngồi bắt chân chữ ngũ, tráng ấm chén, chuyên trà từ chén tống sang chén quân, trông xinh đáo để. Lúc này không ai dám bảo hắn là ăn mày, mặc dầu quần áo hắn rách như tổ đỉa. Uống một chén thứ nhất xong, uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo nheo mắt lại, chép môi đứng dậy, chắp tay vào nhau và thưa với chủ nhân: "Là thân phận một kẻ ăn mày như tôi được các ngài cao quý rủ lòng thương, thực kẻ ty tiện này không có điều gì dám kêu ca lên nữa. Chỉ hiềm rằng bình trà của ngài cho nó lẫn mùi trấu ở trong. Cho nên bề dưới chưa lấy gì làm khoái hoạt lắm". Hắn lạy tạ, tráng ấm chén, lau khay hoàn lại nhà chủ. Lau xong cái ấm độc ẩm của hắn, hắn thổi cái vòi ấm kỹ lưỡng cất vào bị; thế rồi xách nón, xách gậy, vái chủ nhân và quan khách xong, xách gậy tập tễnh lên đường. Mọi người cho là một thằng điên không để ý đến. Nhưng buổi chiều hôm ấy cả nhà đều lấy làm sợ tên ăn mày vì ở lọ trà đánh đổ tung vãi ở mặt bàn, chủ nhân đã lượm được ra đến mươi mảnh trấu."
photo Internet |
Ông
cụ Sáu nghe khách kể đến đấy, thích quá, vỗ đùi mình, vỗ đùi khách, và kêu:
— Giá cái lão ăn mày
ấy sinh vào thời này, thì tôi mời hắn ta đến ở
luôn với tôi để sớm tối có nhau mà thưởng thức trà ngon. Nhà, phần nhiều lại
toàn là ấm song ẩm quý.
— Cổ nhân cũng bịa ra một chuyện cổ tích thế để làm vui thêm cái việc uống
một tuần nước đấy thôi, chứ cụ tính làm gì ra những thứ người ấy. Ta chỉ nên cho nó là một câu giai thoại.
— Không, có thể như thế được lắm mà. Tôi chắc cái lão
ăn mày này đã tiêu cả một cái sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn mới sành thế và mới đến nỗi cầm bị gậy. Chắc những
thứ trà Bạch Mao Hầu và trà Trảm Mã hắn cũng đã
uống rồi đấy ông khách ạ. Nhưng mà, ông khách này, chúng ta phải uống một ấm
trà thứ hai nữa chứ. Chả nhẽ nghe một câu chuyện thú như thế mà chỉ uống với
nhau có một ấm thôi.
Thế rồi trong khi cụ Sáu tháo bã trà vào cái bát thải
cổ rộng miệng vẽ Liễu Mã, ông khách nâng cái ấm quần ẩm lên, ngắm nghía
mãi và khen:
— Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức màu gan gà. "Thứ nhất
Thế Đức gan gà; thứ nhì Lưu Bội; thứ ba Mạnh Thần". Cái Thế Đức của cụ,
cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa
có cao mấy.
Cụ Sáu vội đổ hết nước sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò bay vào sát mặt
khách:
— Ông khách có trông rõ mấy cái mấu sùi ở
trong lòng ấm đồng không? Tàu nó gọi là cái kim
hỏa. Có kim hỏa thì nước mau sủi lắm. Đủ năm cái kim hỏa đấy.
— Thế cụ có phân biệt được thế nào là nước sôi già và nước mới sủi không?
— Lại "ngư nhãn, giải nhãn" chứ gì. Cứ nhìn tăm nước to bằng cái mắt cua thì là sủi vừa và khi mà tăm nước to bằng mắt cá thì là nước sôi già chứ gì nữa.
— Lại "ngư nhãn, giải nhãn" chứ gì. Cứ nhìn tăm nước to bằng cái mắt cua thì là sủi vừa và khi mà tăm nước to bằng mắt cá thì là nước sôi già chứ gì nữa.
Chủ khách cả cười, uống thêm mỗi người hai chén nữa. Cụ Sáu tiễn khách ra cổng
với một câu:
— Thỉnh thoảng có đi qua tệ ấp, xin mời ông khách ghé thăm tôi như một người
bạn cũ. Mỗi lần gặp nhau, ta lại uống vài tuần nước. Hà, hà.
Năm
ấy nước sông Nhĩ Hà lên to. Thảo nào mấy
nghìn gốc nhãn trồng trên mặt đê quanh vùng, vụ đó sai quả lạ. Cái đê kiên cố
đã vỡ. Nhưng vốn ở cuối dòng nước chảy xiết, nhà cửa cụ Sáu chưa đến nỗi bị cuốn
phăng đi. Lúc nước rút, ở cái cổng gạch nguyên vẹn, hai mảng giấy hồng điều đôi
câu đối dán cửa vẫn còn lành lặn và nét chữ vẫn rõ ràng:
Họ lịch sự như tiên, phú
quý như giời,
quất con ngựa rong chơi
ngoài ngõ liễu.
Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất,
Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất,
gọi hề đồng pha nước trước
hiên mai
Năm sau, quãng đê hàn khẩu, chừng hàn không kỹ, lại vỡ luôn một lần nữa.
Cái cổng gạch nhà cụ Sáu vẫn trơ trơ như cũ. Nhưng lần này thì đôi câu đối giấy
hồng điều, gió mưa đã làm bợt màu phẩm mực, ngấn nước phù sa đã phủ kín dòng chữ
bằng những vạch ngang dày dặn.
Ông khách năm nọ — cái người kể câu chuyện tên ăn
mày sành uống trà tàu — đi làm ăn xa đã mấy năm, nhân về qua vùng đấy,
nhớ nhời dặn của cụ Sáu, đã tìm tới để uống lại với ông già một ấm trà tàu nữa.
Nhưng người khách hỏi nhà ông đến, người khách đã bùi ngùi thấy người ta bảo
cho biết rằng nhà cụ Sáu đã bán rồi. Thấy hỏi thăm tha thiết, người vùng ấy
mách thêm cho ông khách:
— Có muốn tìm cố Sáu thì ông cứ xuống Chợ Huyện. Cứ đón đúng những phiên chợ
xép vào ngày tám thì thể nào cũng gặp. Chúng tôi
chỉ biết có thế thôi.
Phải, bây giờ ông cụ Sáu sa sút lắm rồi. Bây giờ ông cụ lo lấy bữa cơm ăn cũng
khó, chứ đừng nói đến chuyện uống trà tàu. Thỉnh
thoảng có xin được người nào quen một vài ấm trà,
cụ lấy làm quý lắm: gói giấy, giắt kỹ trong mình, đợi lúc nào vắng vẻ một mình
mới đem ra pha uống. Vẫn còn quen cái thói phong
lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp mùa hoa nở, cụ lại còn cố bứt lấy ít
nhị đem ướp luôn vào gói trà dắt trong mình, nếu đấy là trà mạn cũ.
Những buổi có phiên chợ, cụ Sáu ngồi ghé vào nhờ gian hàng tấm của người
cùng làng, bày ra trên mặt đất có đến một chục chiếc ấm mà ngày trước, giá có
trồng ngay cọc bạc nén cho trông thấy, chửa chắc cụ đã bán cho một chiếc. Có một
điều mà ai cũng lấy làm lạ, là cụ bán lũ ấm đất làm hai lớp. Mấy kỳ đầu, cụ bán
toàn thân ấm và bán rất rẻ. Còn nắp ấm cụ để dành lại. Có lần vui miệng, cụ ghé
sát vào tai người bà con:
— Có thế mới được giá. Có cái thân ấm rồi, chẳng nhẽ không mua cái nắp vừa
vặn sao? Bán thân ấm rẻ, rồi đến lúc bán nắp ấm, mới là lúc nên bán giá đắt.
Cụ Sáu cười hề hề, rồi vội quay ra nói chuyện với bạn hàng đang mân mê những
cái thân ấm đất đủ màu, cái thì dáng giỏ dâu, cái thì múi na, hình quả vả, quả
sung, v.v.
— Thế nào tôi cũng tìm được nắp cho ông. Cứ phiên sau lại đây thế nào cũng
có nắp. Không, đúng ấm tàu đấy mà. Nếu không tin ông cứ úp ấm xuống mặt miếng gỗ
kia, cho ấm ngửa trôn lên. Cứ xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm đều cắn sát
mặt bằng miếng gỗ thì biết. Nếu muốn thử kỹ nữa, quý khách thả nó vào chậu nước,
thấy nó nổi đều, cân nhau không triềng, thế là đích ấm tàu.
Có vài chỗ họ cũng giữ nguyên văn Kiệt ơi
RépondreSupprimerheureusement...
Supprimer