Muốn học hiểu tiếng Việt ngày nay, kể cũng là khó.
Vì nước ta chưa có được một bộ từ điển làm tiêu chuẩn, tương đương với một Dictionnaire Robert của Pháp, hay một Oxford
Dictionary của Anh, chẳng hạn.
Lấy một thí dụ: từ "xử lý" không tìm thấy trong Việt Nam Tự Điển
(1931, Hội Khai Trí Tiến Đức). Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (1895,
Huình Tịnh Của) ghi: "Xử lý: Cứ lý luật mà giăng thằng, không tây vị.". Trong Đại từ điển Tiếng Việt
(1998, Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin), có từ này. Nhưng các định nghĩa còn thiếu sót, không ghi đủ vài nghĩa thông dụng của từ này. Xem trang xử lý.
photo Internet
Ngoài ra, trong một từ điển làm tiêu chuẩn, cũng cần ghi cả nguồn gốc mỗi từ, thời khoảng xuất hiện của nó. Hai điểm này rất quan trọng.
Điểm thứ nhất, đối với thí dụ từ "xử lý" (với những nghĩa mới từ 1975 ở miền Nam cũ), người đọc phải biết từ "xử lý" là mượn tiếng Hoa, chứ không phải là thứ tiếng "truyền thống" quen
gọi là "Hán Việt", như người ta lầm tưởng.
Điểm thứ hai, người đọc phải biết từ "xử lý" chỉ bị áp đặt trên cả nước sau 1975. Điều này giúp cho người đọc biết được trong thời khoảng, hoàn cảnh nào một từ đã xuất hiện.
Ở bên Pháp, mỗi năm trước mùa khai trường, người ta đều có những ấn bản mới cho những từ điển Larousse,
Robert, v.v., được học sinh dùng làm mẫu mực. Đó
cũng là dịp để báo chí, đài truyền hình bàn tán về những từ mới được đưa vào từ điển. Người ta cũng nói
tới một số từ bị loại bỏ khỏi từ điển, vì chúng đã
rơi vào quên lãng.
Như vậy, từ "xử lý" sẽ được ghi như sau, trong một Từ Điển Tiếng Việt Diên Hồng, ấn bản năm 2xxx:
xử lý
{Hán Việt, thời khoảng xuất hiện ???, gốc tiếng Hoa 處理,thời khoảng xuất hiện ở miền Nam 1975}
(Động từ) 1. Nghĩa là ... 2. Nghĩa là ... 3. Nghĩa là ...
Thí dụ: ...
Và hy vọng, vào một năm không xa,
mục từ này sẽ biến mất khỏi từ điển. Hay có thêm
ghi chú như sau: "Từ Hoa ngữ này, bị áp đặt từ 1975, nhưng ngày nay đã không còn bị lạm dụng nữa".
Hiện nay, có ba chiều hướng biến chuyển trong tiếng Việt.
Chiều hướng thứ nhất: Từ năm 1975, nhà cầm quyền đã
áp đặt trên cả nước một loạt từ ngữ tiếng Hoa, rập khuôn Trung quốc, nhằm mục đích củng cố chế độ công an, kềm kẹp đời sống người dân.
Đó là trường hợp của những "từ mới" như: cải tạo, hộ khẩu, xử lý, xử trí, đăng ký, v.v.
Chiều hướng thứ hai: Sự xuất hiện àoạt của hàng trăm từ Hoa ngữ
trên báo chí, hay cách nói như người Tàu trong đời sống hằng ngày. Những từ ngữ tiếng Hoa này thực ra không cần thiết, vì trong tiếng Việt đã sẵn có những lời, những câu nói trong
sáng, thừa sức bày tỏ những khái niệm tương đương.
Rõ ràng, đây là chủ trương đồng hóa tiếng Việt theo tiếng Hoa. Nó mang ý đồ của thực dân mới, dùng sức ép kinh tế không cần tới súng đạn, dùng văn hóa
xâm nhập vào tận đầu óc người dân bị trị.
"Tiếng ta còn..."
Đây là một số thí dụ của những "từ mới" theo chiều hướng thứ hai này: X-quang, ngoại hình, nội y, chất lượng.
Chiều hướng thứ ba: Tiếng nói con người thì tự nhiên là có biến đổi theo đời sống xã hội, lịch sử hay chịu ảnh hưởng của thế giới chung quanh. Ở Việt Nam ngày nay, tạm thời có thể chia ra ba loại "từ ngữ mới" theo chiều hướng thứ ba này.
Loại thứ nhất, là những từ ngữ
tuyên truyền, những khẩu hiệu đã gần như trở thành những thành ngữ mới: xóa đói giảm nghèo, vùng
kinh tế mới, phân rõ bạn thù, 16 chữ vàng và 4 tốt, học tập tốt lao động tốt, v.v.
photo dtk 2010
Loại thứ hai, là để thích ứng với những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật ..., hoặc chạy theo thời thượng Âu Mỹ.
Loại thứ ba, tự phát trong dân gian, phản
ánh rất nhiều tâm lý, ý nghĩ người dân trong xã hội bây giờ: đại gia, gái gọi, chân dài, bồ nhí, cơm trắng,
siêu mẫu, bão giá, v.v. Trong loại từ ngữ thứ hai này, mới đây người ta đang xôn
xao về những người trẻ muốn sáng tạo và truyền miệng "ngôn ngữ thời @".
Giọng ca tuyệt vời mang ngoại hình đồ sộ làm khán giả kinh ngạc.
Dù xuất hiện vớingoại hình "mình hạc xương mai" nhưng Á hậu
Hoàng Yến vẫn thể hiện được ...
"Ngoại
hình外形" là một trong rất nhiều từ tiếng Hoa "không cần thiết", đã xâm nhập chiếm đóng ồ ạt trong tiếng Việt, vào khoảng mấy chục năm gần đây.
Đó
không phải là sự biến hóa tự nhiên của tiếng nói, khi giao tiếp ảnh hưởng lẫn nhau trên thế giới. Bởi vì, những từ tiếng Hoa loại này không đem lại
một ý niệm nào mà ta chưa có cách trình bày, cũng không phải là đáp ứng nhu cầu hấp thụ những
khái niệm mới nào về khoa học, kỹ thuật, v.v.
Chứng cớ là ngay trong bản tin có nhan đề đã dẫn ở trên: "Hillary Clinton không quan tâm đến
ngoại hình", nhà báo đã viết ra một cách rõ
ràng dễ hiểu (và lịch sự nữa!) như sau: "11 Tháng Năm 2012 – Ngoại
trưởng Mỹ Hillary Clinton cười khi mọi người bàn tán về phong cách của bà và
tuyên bố không còn để tâm đến vẻ bề ngoài của
mình.".
photo dtk 2009
Thật vậy, "ngoại hình"
có nghĩa là: bề ngoài, thân hình, vóc dáng, v.v.
Câu
thí dụ thứ hai: "Giọng ca
tuyệt vời mang ngoại hình đồ sộ làm khán giả
kinh ngạc", chẳng qua chỉ muốn nói rằng: người hát, dù mang một thân hình to béo, nhưng lại có một giọng ca tuyệt vời,
làm cho khán giả hết sức ngạc nhiên.
Hơn nữa, hai chữ "vóc
dáng" đáng yêu — vốn có từ xưa, cũng đủ bày tỏ điều
này: "Dù xuất hiện vớivóc dángmình hạc xương mai ...".
Có
người cho biết báo chí vừa có thêm những từ mới "đả nữ", "quần
hôn".
Vào
google.com tìm "đả nữ", thấy ngay một loạt những hình ảnh, tựa như
những "Cô gái đồ long" trong truyện võ hiệp Kim Dung. Xem thêm thì hay
"đả nữ" là những vai nữ đánh võ trong phim: "Mỹ nhân Việt nào sẽ là đả nữ tương lai? (...) Nhiều người cho rằng, khó để Hà Tăng diễn tốt một vai
đánh đấm, vì ngoại hình khá nhỏ con và gương mặt không được lạnh lùng và góc cạnh. Ngoài ra, việc luyện võ không phải một sớm một chiều mà đạt được kết quả tốt."
Theo khuynh hướng biến
chuyển của tiếng Việt ngày nay, từ mới này chắc cũng của Tàu mà ra. Tra sơ qua vài bộ từ điển Hán ngữ, không thấy có mục từ 打女(đả nữ).
Nhưng tìm "打女" trên
google.com, thì có hàng trăm hình, y hệt như khi tìm bằng hai chữ "đả nữ".
Hơn nữa, lại tìm ra cả giải thích của từ này.
tranh vẽ Internet
Đả
nữ打女:tức đàn bà con gái có công phu võ thuật. Từ này thường gặp
trong báo chí, ở những trang truyện giải trí hay trong phim ảnh võ hiệp. Nó
cũng phiếm chỉ vai nữ đánh võ trong loại phim này.
Cũng lạ, tại sao người ta không
dùng từ "hiệp nữ 俠女" sẵn có? Hay là bây giờ, điều quan trọng chỉ là
"đấm đá", chứ đâu cần gì tới tinh thần "hành hiệp
trượng nghĩa" ngày xưa?
Chỉ hai câu mở đầu đã khiến người tê lạnh. Không có gì cả, không lời nào tha thiết,
nhưng đúng như ông Huy Trâm nói: “Thơ Quang Dũng ý đã nhiệt thành, cao đẹp, mà
lời thơ lại êm ái gợi cảm vô cùng. Nói về thơ nhẹ nhàng, êm dịu, mà đọc tới đâu
lâng lâng tưởng chết cả lòng đến đấy, thì thi ca hiện đại chỉ có Quang Dũng.”
Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng
– cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi.
Mai chị
về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Đó là chỗ sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên hiển hiện tinh thể
một cách không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao đời đi tìm cõi huyền
nhiệm của ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó tay lắc đầu, tuyệt
nhiên không biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co.
Và biết bao thy sỹ hoằng viễn đã nghĩ rằng, nguyện rằng, mình sẽ suốt đời không
làm một vần thơ nào cả — một phen thể hội cái chỗ dị thường trống trải vắng vẻ
trong lời man mác thiên tiên kia.
Lại có những nhà tư tưởng như Heidegger, viết bao pho sách lịch kịch nêu bao
câu chất vấn u ẩn, đáo cùng vẫn chỉ nhằm mục đích nhiếp dẫn tư tưởng tới chỗ
mép bờ bất khả tư nghị của thi ca.
Nerval sau những lần thành tựu cõi miền ngôn ngữ đó, ông bèn lao mình vào cõi ẩn
mật vô ngần của một nguồn siêu thực không tiếng không lời Les Chimères.
Apollinaire, sau phút dị thường bước lên tột đỉnh đạm nhiên kia, lập thời nhảy
lùi làm thơ theo thể thái bông lông tầm phào, bất sá lam hồng tố bạch.
Mai chị
về em gửi gì không?
Câu hỏi cũng lửng lờ như lời đáp lững lơ. Hỏi mà cũng như không hỏi, không
nói, không ngó, không nhìn nhau…
Và chỉ sau khi lên ngựa, chia bào, con người mới để lòng mình bay tỏa khắp đường
đi.
Đường đi
không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Tâm sự của người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi cũng một tâm tình
ly biệt. Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển. Lòng sao lạnh?
Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng
lạnh không gian… Và tiếng “mong nhớ mong”
kia cũng chỉ vọng vào được trong không gian xa hút mà thôi.
Nghĩa là vọng trở lại vào lòng mình. Từ lòng mình tỏa vào lòng vũ trụ. Lại từ
lòng vũ trụ dội lại lòng mình. Đó là cái vòng kỳ ảo của mong nhớ mong. Và mong
nhớ mong mênh mông như thế, thì mong nhớ mong là cõi của từ bi tế độ vậy.
Bởi vì nó mang hải lượng bao hàm. Nó bao dong rừng biển, sớm chiều, canh gà,
sương hoa, cành hoang ngựa lạc. Nó đem thương mến phủ khắp hình hài vạn vật từ
gần gũi tới xa tít dặm xa.
Quê chị
về xa tít dặm xa
Vì đó là một quê hương nào riêng biệt nằm tại một bến bờ bỉ ngạn nào vô tức vô
thanh, vô biên vô tế.
Quê chị
về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua
Ngựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo. Nghĩa là: ở trong cõi hư
không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng lênh đênh theo nghĩa vô
ngần: trụ vô sở trụ.
Người ngồi trên ngựa cũng lạc ngựa luôn. Hươu trong rừng cùng một cảnh ngộ lạc
loài như nhau, lại tam trùng lạc lõng nhau, vì bất ngờ sợ hãi nhau, quay đầu bỏ
chạy. Lời thơ lại thêm một chút niêm hoa vi tiếu “theo ngó theo”.
Ngựa chị
dừng bên thác trong veo
Nếu thác đục lầy cho một chút, ắt có phần gần gũi bụi hồng hơn. Nhưng tại sao
thác lại trong veo cắc cớ ra như thế? Thì trần gian còn biết đem tâm sự hồng trần
ký thác vào đâu? Đó là chỗ đạm nhiên huyền bí lô hỏa thuần thanh vậy. Nó đốt
cháy linh hồn bằng một tiếng trong veo. Nhưng đốt cháy mà đâu có bỏng da bỏng
thịt. Nó cháy để thăng hoa cho linh hồn về ba la mật, sau một phút linh hồn tạm
dừng trong một phen tư lự. Vì dù sao trận giũ áo cũng còn vướng víu với nhân
nghĩa nhân tình.
Ngựa chị
dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hươu chạy quay đầu theo ngó theo
Rồi sẽ xin khóc một cơn vô ngần cho trùng sinh trong vĩnh biệt:
Rừng đêm
nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị dừng bên thác sao vàng
Sao rơi đáy nước vương chân ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng
Ta lại gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng đôi mi hàng lại
hàng, nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng lại tràn ra
thành hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về vui chơi êm đềm
với không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc, nhưng không phải
khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất định.
Hoặc đâu có phải bạ đâu khóc đó như bọn thy sỹ trung niên. Người ta khóc từ
chín kiếp khóc về; như trận mưa vốn từ thiên thu rớt hột. Vì thế nên gọi là
hàng lại hàng. Vì thế nên có chuyện sao rơi đáy nước. Vì thế nên có chuyện sao
vương chưn ngựa. Chưn ngựa ở đây cũng mang đủ trùng quan thời gian vũ trụ nên mới
có thể chạm vào bóng sao rơi từ thời gian tinh thể rớt về. Người và ngựa và sao
và nước bỗng nhiên như nhiên đã đi vào cõi chung vạn vật nhất thể. Thì từ đó trở
lại với đoạn đầu, từ câu hỏi mông lung tới lời đáp nhẹ nhõm, niềm mong nhớ mong
là một tặng vật không lời, không nhất định là riêng biệt của riêng ai trao gửi
lại cho ai. Người chị và người em kia cũng không có tên tuổi nào được hạn định
nơi đâu. Đó là hai đứa con của trời và đất đẻ ra trong một mùa xuân hôn phối.
Thì mai chị về em gửi gì không, là gửi cho chị hay cho ai? Làm sao ta dám quyết
định? Chỉ biết rằng: chị hãy nhớ má em hồng. Nghĩa là: mùa xuân xanh còn tồn
lưu mãi mãi trong mùa thu ly biệt. Đó là tặng vật của em trời trao chị đất – nhớ
má em hồng là ký ức kỳ ảo Mnémesyne.
Chẳng hiểu sao đọc thơ Quang Dũng, Nguyễn Du, Hồ Dzếnh, Huy Cận, tôi thường
nghĩ tới người Chiêm Thành. Tội lỗi ông cha chúng ta đối với dân tộc ấy kể cũng
được chuộc phần nào, cũng như ngày xưa Homère đã giải oan cho người Troyens bị
đắm chìm bởi người Hy Lạp.
Mấy bài thơ của Quang Dũng như giữ lại cho mọi người một niềm tương ứng mênh
mông trong thời đại ngỗn ngang oan nghiệt, thế giới cùng xô ùa nhau vào hủy diệt,
tàn phá, trong những trận tẩu hỏa nhập ma. Chiến tranh trong thời Quang Dũng dù
sao cũng còn để lại cho người một dư địa để hoài niệm nhớ thương nhau. Nhưng dần
dà, chút tình thương còn sót cũng mất đi giữa hỗn độn. Lúc bấy giờ e chỉ còn cửa
quỷ đối thoại với nhà ma. Quang Dũng cũng linh cảm sự đó, nên bài “Đôi Mắt Người
Sơn Tây” khép lại với mấy tiếng “bao giờ, bao giờ” ngậm ngùi khôn tả:
Bao giờ
trở lại đồng Bương Cấn?
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ
ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta
Khoảng trống lại trở về ngập khắp mép bờ ngôn ngữ. Như muốn đánh chìm hết mọi lời
thân thiết đã thốt ra. Chúng ta không còn biết phải giải thích thơ Quang Dũng
ra sao được nữa cả.
Ngày ấy
thanh bình chắc nở hoa
Nhưng có lẽ ông không tin ở ngày ấy, ông không nghĩ rằng ngày nở hoa ấy sẽ về.
Còn có bao giờ em nhớ ta? Nghĩa là không còn có bao giờ nữa cả? Chúng ta sẽ tiếp
tục chết hết. Người ta sẽ tiếp tục giết nhau cho tới buổi chung cục thời gian.
Cuộc chiến tranh ngày nay không còn chút gì giống như chiến tranh những thời đại
trước. Có những cuộc chiến tranh huy hoàng như một trận mưa rào rực rỡ, làm hồi
sinh con người trong tâm thức từ bi. Nhưng có những cuộc chiến tranh vốn từ
trong tinh thể là làm tan rã tiêu diệt mất bản tính con người. Ngay cả con ngợm,
con đười ươi cũng không còn sống sót một mống nào hết cả. Thì như thế? Còn có
bao giờ em nhớ ta?
Người ta nhầm lẫn một cách kỳ quặc cái ý nghĩa sơ thủy của chiến tranh. Cuộc
chiến tranh bao dong của những ông Nguyễn Huệ, chiến tranh bác ái của những ông
Napoléon, chiến tranh đó không còn tự nhận diện ra mình nữa trong cuộc chiến
tranh tàn phá ngày nay. Tolstoï ngày xưa chẳng hiểu gì về Napoléon hết cả, cũng
như chúng ta ngày nay chẳng hiều gì cả về cuộc chiến tranh của chúng ta. Thật
là cắc cớ. Còn có một chân lý dị thường ẩn tàng trong Dịch Kinh của Khổng Tử
đang khiến mọi người tư tưởng ngậm ngùi không còn biết phải thốt bất cứ một lời
gi trong hiện trạng năm châu. Bài thơ Quang Dũng hiện ra tại chỗ chênh vênh bát
ngát và thê thảm nhất trong sử lịch con người. Nó chỉ đạm nhiên và thống thiết
khơi rộng những khoảng trống vắng ra để cho mọi vấn đề được nhận định và tự tìm
lời giải đáp.
Bàn luẩn quẩn mãi là vô lối. Chỉ nên thong dong đọc thơ như uống nước mía, như
dõi theo cánh chuồn chuồn, như nằm ngủ gọi em Thúy Kiều em Thúy Vân em Đạm
Tiên, em Hoạn Thư em Bạc Hạnh, em Sở Khanh, em Mã Giám Sinh, mọi mọi em em của
em Tố Như Tử em Liệp Hộ em Thanh Hiên, em Hiền em Thánh, em Cành em Nhánh, em
Trái Ớt, em Muối Tiêu, em Soài Riêng sa rụng, em Bương Cấn em Sài Sơn…
Bao giờ
trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng.
Tuy nhiên riêng đối với học sinh đang tập đi thi để cuối năm cưới vợ thì chớ
nên lẩn thẩn chiêm bao đọc thơ nhiều quá.
Bùi Giáng (Đi vào cõi thơ, Ca Dao xuất bản, Saigon, 1969)
Cách đây vài
tháng, Thái Hà xuất hiện trong một sự kiện với một
chiếc váy có kiểu dáng và họa tiết ấn tượng nhưng trang phục này bị cho là hàng
nhái ...
Lần đầu, mới đọc câu viết, không hiểu "sự kiện" nghĩa là gì. Tìm hiểu thêm thì hay "sự
kiện 事件" ở đây dịch từ tiếng Anh "event", chỉ những "cuộc hội",
"lễ khánh thành", "buổi ra mắt", "ngày trình diễn",
v.v.
Trên mạng
Internet http://aiim.edu.vn/blog_mod/event-coordinator-la-gi, người ta còn giảng
giải "Event coordinator" là "Điều phối viên tổ chức sự kiện".
Khuynh hướng vay mượn Hoa ngữ ngày càng lộ rõ ở
Việt Nam.
Vấn đề là những
"từ mới" này ("mới" vì trước đó không có, hoặc đã có nhưng bây giờ mang nghĩa khác) thiếu trong sáng vì chúng thường có nhiều ý nghĩa rất bao quát.
Thay vì nói:
"Thái Hà xuất hiện trong một sự kiện với một
chiếc váy ...",
ta nói: " Thái
Hà xuất hiện trong một buổi trình diễn thời trang (chẳng
hạn) với một chiếc váy ...", thì có phải rõ
ràng dễ hiểu hơn không.
"Nội y": quần áo lót, đồ lót. Từ lâu, người Việt
vẫn nói "quần áo lót", "đồ lót": rõ ràng, dễ hiểu. Bây giờ, người ta
đua nhau nói "nội y內衣", y hệt tiếng người Hoa.
Những từ Hoa ngữ ngày
càng tràn ngập trong tiếng Việt.
Ngày xưa dưới thời
Bắc thuộc, người Tàu luôn luôn tìm cách bắt người mình ăn mặc, để tóc ... theo
lối sống của họ.
Ngày nay, ngay cả
tiếng Việt cũng đang dần dần đồng hóa với tiếng Tàu.
"Cơm trắng" gần đây mang một ý nghĩa mới, không phải là cơm nấu
bằng gạo giã kĩ trắng tinh, mà là cơm không có rau, thịt, cá... ăn kèm.
"Sài Gòn, bề nổi là một thành phố lộng lẫy xa hoa sực mùi dầu thơm và
những nhà hàng tiệm ăn sang trọng. Nhưng vẫn còn đó một Sài Gòn của những công
nhân, những trí thức mà bữa cơm chiều chỉ là bát cơm không, mua ở cổng nhà
ga."
photo Internet
Trước những cơn "bão giá" (tức là những "đợt giá cả tăng vọt"), người nghèo càng thêm khó khăn chật vật.
Một chị bán "cơm trắng" nói: “Khách mua đủ lứa tuổi. Trẻ em đánh giày, phụ nữ bán báo, người già
bán vé số.” Chị nói thêm: “Lắm người
chỉ mua vài ngàn, nhưng vẫn phục vụ. Cơm cháy
thường để cho mấy người neo đơn, nghèo khổ. Lắm khi thấy tội quá, không nỡ lấy
tiền.”
Lời bàn "tiếng Việt"
"Bão giá", "cơm trắng": tiếng nói của người dân quả thực chưa
bao giờ gắn liền với đời sống xã hội như thế.
Nhưng bà hàng cơm, thay vì nói (theo lối cán bộ nhà nước):
"Lắm người chỉ mua vài ngàn, nhưngvẫn phục vụ 服務",
sao không nói: “Lắm người chỉ
mua vài ngàn, nhưng vẫn bán." Cho dễ hiểu hơn một chút.
Đọc thơ văn xưa thường gặp khó khăn vì những điển tích. Chẳng
hạn, trong bài thơ sau đây của Tú Xương
(1870-1907):
Thông gia
với quan
Nghĩ rằng quan lớn thế thì sang.
Thương con, toan lấy dây tơ buộc,
Kén rể vì tham cái lọng tàn.
Nào có ra chi phường khố lụa
Thôi thì cũng tủi kiếp hồng nhan.
Cậu này ắt hẳn hay nghề sáo
Dây vũ dây văn vụng ngón đàn.
Chú thích:
dây tơ: do tích "ông già dưới trăng"
(Nguyệt hạ lão nhân 月下老人) lấy tơ đỏ xe duyên vợ chồng. Vi
Cố 韋固đi kén vợ,
vào chùa gặp một ông già, bên mình có một túi chỉ hồng, tay mở quyển sách, soi
ra ánh trăng mà xem. Chỉ đã buộc rồi, thì dù thân, thù, quý, tiện, thế nào rồi
cũng phải hợp. Ông già ấy xe dây cho Vi Cố lấy một đứa con nhà hàng rau, rách
rưới bẩn thỉu. Vi Cố giận toan giết đi, mà rồi sau cũng lại lấy nhau (theo ghi
chú trong: "Truyện Thúy Kiều", Bùi Kỷ & Trần Trọng Kim hiệu đính và
chú giải). Kiều: Ông tơ ghét bỏ chi nhau,
Chưa vui xum họp đã sầu chia ly.
khố lụa: tức "hoàn khố" 紈褲, quần lụa
mịn. Chỉ quần áo đẹp của con em nhà quý tộc ngày xưa. Sau mượn chỉ con em nhà
giàu sang. ◇Đỗ Phủ杜甫: Hoàn khố bất ngạ tử, Nho quan đa
ngộ thân 紈褲不餓死, 儒冠多誤身 (Phụng tặng Vi Tả Thừa 奉贈韋左丞) (Con nhà mặc) khố lụa không chết đói, Mũ nhà nho hay làm lụy
thân.
Đại ý: Tú Xương
chế giễu một bà góa, vì tham giàu sang, muốn gả con gái cho quan. Tiếc
rằng ông quan này nghiện thuốc phiện và không có tài cán chi cả.
Thơ văn phản ánh xã hội. Tú Xương (1870-1907) sống vào thời lịch
sử bi đát, triều đình nhà Nguyễn đang trên đà suy sụp, thực dân Pháp bắt đầu củng
cố guồng máy thống trị của họ trên đất nước Việt Nam.
So với thời nay, số phận người đàn bà Việt Nam vẫn chưa khá
hơn là bao. Xem thêm: "cửu vạn", "chân dài".