Rechercher dans ce blog

jeudi 9 août 2012

tắc xi


Taxi, tiếng Việt trước hay sau 1975, cũng gọi là tắc xi.

Hồi xưa, ở Saigon, tôi rất ít có dịp đi xe tắc xi. Mấy chục năm sau, mấy lượt về Việt Nam trong vòng mười lăm năm, tôi mới thường di chuyển bằng phương tiện này. Một phần là vì giá chạy tắc xi ở Việt Nam rất rẻ so với nước ngoài, và trên đường lúc nào cũng có xe chạy kiếm khách. Muốn đi xa gần đâu cũng được. Chỉ có một điều khó chịu là mấy người tài xế tắc xi — nếu không hay nhì nhằng xin thêm tiền thì cũng tìm cách gian lận này nọ. Có một lần, vừa ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất, gia đình tôi ba người còn đang ngơ ngác đứng tìm xe chở vào trung tâm thành phố, bỗng có một người xà lại, kéo xềnh xệch mấy valises hành lý của chúng tôi về chiếc xe cỡ 6 chỗ ngồi, giục chúng tôi lên. Nhà tôi vốn vẫn sợ bị lừa, mặc cả giá tiền với người tài xế mấy câu, rồi nhận lời. Sau đó, lúc đến nơi, trả tiền xong, về phòng nghỉ một lát, mới hay mình bị hố. Tiền giấy Việt Nam đếm hàng trăm ngàn, tính nhẩm ước lượng đổi sang dollars hay euros rất dễ lộn. Nhất là chưa quen với khí trời nóng bức tháng tám năm đó, nhà tôi đã trả chuyến xe đắt gấp mười giá cả bình thường. Đó chẳng phải là lần duy nhất bị xí gạt. Lại thêm, mỗi lần xuống xe, đều bị tài xế kì kèo xin cho thêm hoặc lờ đi không thối lại tiền dư. Nhiều lần đi đâu đó, tôi biết từng con đường phải qua, nên thấy rõ tài xế cố ý đi vòng cho thật xa để ăn tiền. Lại có lần, xe vừa ngừng bánh, tôi bắt quả tang tài xế vặn công tơ cây số đường trắng trợn. Một lần, gặp một người lái xe còn trẻ tuổi nhưng có vẻ hiền lành, tôi hỏi sao tắc xi mình hay gian lận như vậy. Anh ta trả lời: "Không có đâu, tụi hành khách nó bần tiện lắm." Anh kể có một du khách người Nhật, đi tắc xi tới nơi, khi trả tiền chỉ còn dư hai ba chục đồng gì đó, mà cũng ngồi lỳ đợi thối lại mới chịu xuống xe. Tôi hỏi đùa tiền lẻ đó mua được cái gì. Anh ta bĩu môi nói: "Mấy trái ớt." Tôi nghĩ rằng người du khách Nhật Bản kia có thái độ như vậy, chẳng qua là để tỏ ra khinh miệt cái thói bất lương vặt của tắc xi Việt Nam. Tôi đã bao lần thấy tận mắt nhiều khách đi tắc xi, thường là người Âu Mỹ, lúc xuống xe trả tiền, đều vùng vằng hậm hực với những người tài xế.

Hơn mười năm trước, tôi đã từng đọc trên báo của cơ quan Công An những bài phóng sự tố cáo tệ nạn xã hội của tắc xi như đã nói ở trên. Nhưng đến bây giờ, có gì thay đổi đâu. Chỉ cần gõ hai chữ "tắc xi" vào ô tìm kiếm trên www.google.com là thấy hàng chục hàng trăm tin tức về tệ trạng này. Chẳng hạn, bài báo sau đây tại trang web Quân Đội Nhân Dân

"Tắc-xi dù" thường tập trung tại các khu vực trung tâm thành phố như chợ Bến Thành, bến tàu cánh ngầm, khu Phạm Ngũ Lão, trước các chợ, siêu thị, bệnh viện... Chính vì vậy, ngày 10-5-2011 vừa qua, chị Rát-ni-y-a (người Ma-lai-xi-a) bắt tắc-xi từ cổng chợ Bến Thành đến sân bay Tân Sơn Nhất để đón bạn đã gặp phải một chiếc "tắc-xi dù" nhái tắc-xi Mai Linh. Đến gần sân bay, với quãng đường chỉ khoảng 7km, lái xe đòi thanh toán số tiền lên đến 4 triệu đồng rồi thả khách xuống đi bộ từ đường Trường Sơn vào nhà ga quốc tế. Lượt trở về, số tiền tắc-xi chỉ hết 150 nghìn đồng. Ghi lại được số xe, chị Rát-ni-y-a đã khiếu nại đến hãng tắc-xi Mai Linh. Qua điều tra, hãng phát hiện đó là chiếc xe nhái xe của Mai Linh, mang biển số 52V-0160 và có đơn gửi cơ quan công an làm rõ. Qua điều tra, tài xế xe dù có tên là Trần Minh Quốc, ngụ tại quận 4. Tại cơ quan công an, Quốc khai đã bấm đồng hồ lên gần 400km để bắt chẹt khách. Trước đó, Quốc đã thực hiện trót lọt 2 vụ, thu hơn 8 triệu đồng của khách nước ngoài.
Theo Hiệp hội tắc-xi TP Hồ Chí Minh, số lượng "tắc-xi dù" hiện nay khó có thể thống kê chính xác được, nhưng chắc chắn con số lên đến hàng nghìn. Những chiếc xe này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường vận tải hành khách công cộng, để lại những hình ảnh thiếu thiện cảm đối với du khách, gây thiệt hại cho người tiêu dùng mà còn gây thất thu lớn cho Nhà nước khi không phải đóng bất kỳ một loại phí, thuế nào. Một trong những nguyên nhân dễ nhận thấy là, hình phạt đối với "tắc-xi dù" chưa đủ sức răn đe, khi mức phạt chỉ từ 2,5 đến 3 triệu đồng. Vì vậy, chỉ cần vài lượt chở khách chụp giật là "tắc-xi dù" đã đủ tiền nộp phạt. Bên cạnh đó, dù các cơ quan chức năng đã mở nhiều đợt ra quân chấn chỉnh và dẹp "tắc-xi dù", nhưng tình hình cũng không có nhiều chuyển biến. Chính việc “ra quân” theo từng đợt nên vào lúc cao điểm thì tắc-xi tạm dừng hoạt động và sau đó lại xuất hiện ngang nhiên hơn.
Để lập lại trật tự trong kinh doanh xe tắc-xi, rõ ràng cần phải có những chế tài nghiêm khắc, đồng thời các cơ quan chức năng cần tăng cường kiểm tra, xử lý những lái xe, chủ xe vi phạm, tuyên truyền cho người dân những đặc điểm phân biệt tắc-xi chính hãng và "tắc-xi dù", nhái thương hiệu.

Lời bàn "tiếng Việt"

Ôi, đã mấy chục năm rồi, nhà nước Việt Nam vẫn nhắm đạt chỉ tiêu biến đổi Việt Nam thành một trung tâm du lịch quốc tế, vượt qua cả những nước láng giềng như Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v. vốn từ lâu lôi cuốn hàng triệu du khách mỗi năm. Đọc bài báo trên, ngày nào đất nước này chưa có dân chủ tự do, thì chỉ tiêu này vẫn còn là một giấc mơ không tưởng.

2019-08-07 Viết thêm:

Bài này viết đã lâu (7 năm về trước). Hôm nay đọc một bản tin trên Internet, thiệt ngao ngán lòng...

Từ: Dương Tràng <travidduong@gmail.com>
Ngày: 22:50:43 GMT-7 ngày 4 tháng 8, 2019
Đến: Dương Tràng <travidduong@gmail.com>
Chủ đề: PHẢI HẾT SỨC CẨN TRỌNG KHI ĐI TAXI TẠI VIỆT NAM. ĐỪNG TIẾC VÀI PHÚT ĐỂ ĐỌC, SẼ GIÚP BẠN VÀ CẢ NGƯỜI KHÁC
PHẢI HẾT SỨC CẨN TRỌNG KHI ĐI TAXI TẠI VIỆT NAM. ĐỪNG TIẾC VÀI PHÚT ĐỂ ĐỌC, SẼ GIÚP BẠN VÀ CẢ NGƯỜI KHÁC
Những câu chuyện dưới đây đều 100% có thật và nạn nhân không ai khác là những người đồng nghiệp, bạn bè của mình.
Mình không nhắm vào bất kỳ hãng taxi nào nhưng hãy đọc bài viết này và biết thêm 1 vài điều để tự vệ cho bản thân.
⚠️Câu chuyện thứ 1: giám đốc của mình đi tiệc với khách hàng tới 2h sáng, bắt taxi về thì trên đường nghe nó nói chuyện di động cá nhân với ai đó. Cụ thể là "Ờ tao đang chạy Cách mạng tháng 8, tới Tân Bình....ờ...nhà ở hẻm XYZ...". Chị ấy thấy nghi nghi rồi. Vừa bước xuống taxi, bước vào hẻm là bị 2 thanh niên đi xe máy xông tới giựt túi xách làm chị ngã trầy cả đầu gối. Cũng may hàng xóm và người nhà ra kịp, nên không mất của.
⚠️Câu chuyện thứ 2: Bạn của chị giám đốc ở trên đi tiệc về lúc 3h sáng, khi đi trên xe chị cũng nghe thằng tài xế nói chuyện di động với ai đó về hành trình ra sao, tới nhà nào. Sau đó chị thấy 1 thằng đi xe máy cứ bám theo taxi của chỉ. Sợ quá, chị bảo thằng taxi chạy vòng vòng lô nhà của chị, thì thằng đó cứ bám theo. Biết ngay là ăn cướp rồi, nên chị bảo thằng taxi khóa chốt cửa. Chị hỏi không dưới 3 lần là thằng taxi có khóa chốt cửa chưa, và nó đều trả lời "Khóa rồi!". Khi chị móc điện thoại ra gọi cảnh sát thì thằng ăn cướp mở cửa lôi chị ra ngoài chém vào tay 2 nhát rồi cướp tài sản. Thằng taxi cũng nhấn ga chạy luôn ngay cái lúc chị bị lôi khỏi xe.
⚠️Câu chuyện thứ 3: Quản lý của mình đi taxi về vào ban ngày, trên xe cũng nghe nó nói chuyện di động với ai đó về hành trình chuyến đi. Lúc đầu chị không nghĩ nó là 1 thằng chỉ điểm nên cũng lơ là. Bước xuống taxi ngay trước cửa nhà, chị loay hoay mở cửa thì bị một thằng đi xe máy chạy lại, 1 tay giật túi xách, 1 tay dùng mũ bảo hiểm đập liên tiếp vào đầu chị. Giằng co một lúc thì người nhà chạy ra cứu, tên cướp thấy vậy cũng bỏ chạy. Điều đáng nói là hàng xóm xung quanh đứng trên lầu dòm xuống xem hết nguyên cái show mà không la ó hay can thiệp gì.
⚠️Câu chuyện thứ 4: Sếp của bạn mình đi taxi từ sân bay về sau chuyến công tác, trên xe cũng nghe thằng taxi nói điện thoại về lộ trình. Vừa bước xuống taxi đi vào hẻm, ông bị 2 thanh niên đi xe máy dùng dao chém tới tập rồi cướp hành lý, tài sản. Sau đó ông phải nằm viện điều trị suốt 1 tháng trời.
⚠️Câu chuyện thứ 5: Con bạn mình vừa đi taxi về, trên xe thằng đó cũng chỉ điểm tương tự các trường hợp trên, Vừa bước xuống xe là bị 2 thằng đi xe máy giựt luôn cái túi đeo chéo trên người.
⚠️Câu chuyện thứ 6: Là mình đây. Hôm đó mình đón taxi từ sân bay Tân Sơn Nhất về nhà, trên đường đi mình cũng nghe thằng taxi nói chuyện điện thoại "Ờ, tao chở khách tới chung cư Bàu Cát 6... ờ, mới ra khỏi sân bay, đang đi trên Hoàng Văn Thụ... blah blah blah...". Nghe xong là mình nghi rồi. Dòm ra phía sau cứ thấy 2 thằng đi xe máy bám đuôi mình. Hổng lẽ hôm nay bị mất của. Thế là khi xe chạy gần đến nhà, mình kêu nó tấp ngay vào quán cơm bên lề đường (quán cơm này mình ăn quen hơn 3 năm luôn á). Vội vàng quăng nó tiền xe, khỏi thối luôn. Mình vèo một phát ngồi ngay trong tiệm đầy đàn ông. Ăn no nê xong mình nhờ anh giữ xe dẫn mình về..
Đó đó. Các bạn nên cẩn thận nhé. Mỗi lần đọc tin tức về việc đi taxi xong bị cướp là mình đều nghi ngờ có thằng chỉ điểm. Tuy rằng có người này người kia, có người xấu thì cũng có người tốt, nhưng cũng đừng nên vì thế mà bất cẩn để trở thành con mồi ngon cho bọn người xấu nhé.
Share thông tin này tới bạn bè và người thân để họ cảnh giác nhé !!!
Nguyen Duc Thinh



vendredi 3 août 2012

đọc lại Nguyễn Tuân

Trong tinh thn tìm hiểu v nhng biến chuyn trong tiếng Vit ngày nay (đng lc chính ca nhng trang blog này), tôi mun cho đăng li mt s bài văn chương chn lc, mt phn như là mt cách ghi mc cho nhng đt biến chuyn ca ngôn ng Vit Nam. Tp tùy bút Vang Bóng Mt Thi ca Nguyn Tuân đã đ li mt du son đm nét trong văn hc. Đó cũng là lý do ti sao nhng bài viết ca Nguyn Tuân đã được ph biến trích dn khá nhiu trên mng Internet.

Khi chép/dán li bài "Mt cnh thu mun" tìm được, dò li theo bn in trên giy (*) có sn, tôi nhn ra mt vài khác bit, nghĩ rng đó ch là nhng bt cn thường gp. Ba bn bn tôi tìm được trên Internet, nói chung gn như ging ht nhau, có l ch là chép/dán ln nhau. Nhưng đc đến bài "Nhng chiếc m đt" đăng li sau đây, tôi bng ngc nhiên, vì phát hin ra mt s sa đi quan trng khi so sánh văn bn in trên giy — tm gi là "bn cũ", vi nhng bn tìm thy trên Internet, — tm gi là "bn mi".

Hin gi, không biết nhng dòng chữ b sa đi này (tô đ trong blog) đã có t năm nào và có phi do chính Nguyn Tuân (đã t ý hay b ép buc) thc hin hay không?

Nói chung, nhng sa đi này, rt gượng go, không đáp ng mt nhu cu văn chương nào rõ rt, mà hình như ch nhm mc đích xóa b du vết ca nhng tư tưởng gi là "tiu tư sn", "phong kiến"... và đ cao "cách mng vô sn".



Ghi chú:
(*) Nhà xut bn Đi Nam, P.O. Box 4279 GLENDALE, CA 91202, USA. Bn này ch là bn chp li ca mt nhà in Saigon, không ghi tên,  vi mt trang cui ca nguyên bn cũ: "Giy phép s 2310 BT/NT/NHK/QN cp ngày 3-8-1968".

Xin bấm vào đây đ xem vài sửa đi chính từ "bn cũ" sang "bn mi".

***


Những chiếc ấm đất
Nguyễn Tuân

Sư cụ chùa Đồi Mai nhìn thấy bóng nắng đã đúng đỉnh đầu, thủng thẳng trở về trai phòng. Nhà sư già gỡ chiếc nón tu lờ khỏi đầu, sắp ngồi vào thụ trai thì có tiếng con trẻ gọi ở ngoài cổng chùa. Một chú tiểu lễ phép bước lên tam cấp:
— Bạch cụ, có người con trai cụ Sáu xin vào.
— Vậy chú vẫn đóng cửa chùa sao? Chú ra mở mau không có người ta phải đứng nắng lâu. Cổng nhà chùa bao giờ cũng nên để ngỏ. Từ giờ chú nên nhớ: sáng sớm tụng kinh nhật tụng và thỉnh chuông xong là phải mở rộng cửa chùa và tối đến, lúc nào học xong kệ thì mới đóng. Kẻo nữa khách thập phương dị nghị.
Tiểu ra được một lát thì một người con trai trạc mười bảy tuổi xúng xính trong chiếc áo dài thâm, chân séo lấm, tay bưng cái khay tiến vào tăng xá, vái sư cụ:
— Bạch cụ thầy con cho con mang xuống biếu cụ bình trà đầu xuân. Và xin phép cụ cho ra giếng chùa nhà gánh một gánh nước.
Nhà sư già đã quen với việc biếu và xin mượn này ở dưới cụ Sáu, khẽ cất tiếng cười. Trên khuôn mặt khô xác, nụ cười không có gì là ấm áp, là thiết tha. Nó chỉ đủ là hiền lành thôi.
— Thế cháu đựng nước bằng cái gì?
— Dạ, có người nhà quẩy nồi và gánh đi theo còn chờ ở ngoài.
— A Di Đà Phật! Nắng này mà đi từ làng trên xuống tận đây lấy nước, cụ Sáu nhà có công quá. Cháu ngồi nghỉ chân đã. Để già bảo chú tiểu đưa tên bộc ra giếng. Cháu đi từ sớm chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật.
— Bạch cụ, cháu ăn mặn ở nhà vẫn còn lửng dạ.
Sư cụ chùa Đồi Mai không nài thêm và vẫn chỉ cười rất thuần hậu.
— Cháu có biết cụ Sáu nhà đến xin nước ở chùa đây đã mấy năm nay rồi không? Gần mười năm. Uống trà tàu như thầy cháu thì cũng có một. Cứ nước giếng chùa đây mới chịu pha trà. Lắm lúc già tự hỏi về cái tiền thân của thầy cháu xem là như thế nào? Nghĩ đến cái nhân duyên của thầy cháu với nhà chùa đây, thực cũng là bền và kỳ lắm cháu ạ.
Thoáng thấy tên lão bộc đã quảy xong gánh nước đang ngơ ngác tìm mình và làm ướt cả khoảng giữa sân chùa lát toàn đá tảng xanh, người con cụ Sáu, với cái từ tốn của một thư sinh ngồi hầu chuyện bực phụ chấp đã xuất gia, liền vội vàng đứng dậy xin phép về.
— Bạch cụ, cháu vội phải về, vì ở nhà hôm nay có khách uống trà. Có lẽ thầy cháu ở nhà đang mỏi mắt chờ gánh nước.
Nhà sư già cũng vội theo bọn xin nước ra tới thềm ngoài. Sư cụ rút trong tay áo vải rộng ra một chiếc quạt thước, xòe rộng hết cả nan quạt, nghiêng che đầu cho đỡ nắng và bảo chú tiểu:
— Chú chạy mau ra vườn, bẻ mấy cành lá đào.
Rồi cụ giữ con cụ Sáu lại:
— Ấy, ấy, thong thả một chút. Thả mấy cành đào có lá vào nồi nước, lúc gánh đi đường xa nó đỡ sóng ra ngoài và về đến nhà, nước vẫn mát.

Bọn xin nước vái chào nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước chân mau của tên lão bộc đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt và thẫm màu. Những hình sao ướt nối nhau trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài rắn. Ví buổi trưa hè này là một đêm bóng trăng dãi lạnh lùng, và ví cổng chùa Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa động.
Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí bốc từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vờn qua những màu xanh bóng loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm. Đứng trong cổng chùa từ bề cao nhìn xuống cái thấp dưới chân mình, nhà sư già hấp háy cặp mắt, nhìn cái nắng sáng lòa. Bọn người xin nước chỉ còn là mấy cái chấm đen, mỗi lúc cử động lại làm tung lại phía sau mình một chùm cát bụi mờ mờ. Gió nồm thổi mạnh nhiều cơn đã đem cả mảnh bụi trần kia vào lọt cổng ngôi chùa cao ráo. Nhà sư nghĩ đến cụ Sáu, thở dài tỏ ý tiếc cho một kiếp chúng sinh còn vướng phải vòng nghiệp chướng.

Cụ Sáu vốn đi lại với chùa đây kể ra đã lâu lắm, từ trước cái hồi nhà sư già tới trụ trì. Mấy pho tượng Phật Tam Thế bằng gỗ mít đặt ở trên bệ và mấy pho kinh in giấy đại thừa là của cụ Sáu cúng đã từ lâu. Cái chuông treo ở trên nhà phương trượng cũng là của ông cụ Sáu cúng vào hồi trùng tu lại chùa đấy. Và mỗi lần nhà chùa lập phả khuyến thì ông cụ Sáu đứng đầu sổ. Chùa Đồi Mai vốn ở xa làng mạc và biệt lập trên một khu đồi nên cũng ít bị phiền nhiễu bởi đám tạp khách. Thỉnh thoảng trong bọn khách đến chơi, ông cụ Sáu được sư cụ biệt đãi nhất. Độ một tháng một lần, nhà sư già lại giữ ông cụ Sáu lại ăn một bữa cơm chay và lần nào từ biệt, nhà sư cũng chân thành tặng khách một rò Chu Mặc Lan. Thường thường mỗi lần gặp gỡ, thể nào hai ông già cũng kéo nhau ra cái giếng nước chuyện vãn rất lâu. Nhà sư  ít nhời thường hay trầm tĩnh ngắm bóng mình trong lòng đáy giếng. Cái bóng nhà sư già ít khi được đậu hình cho lâu trên phiến gương nước giếng mát lạnh: chốc chốc một vài giọt nước ngọt lại rời mạch đá tổ ong, thánh thót rớt xuống, tiếng kêu bì bõm. Ông cụ Sáu tỳ tay vào thành giếng nhờn nhờn rêu xanh, chỉ ngón tay xuống lòng giếng sâu thăm thẳm đến gần hai con sào nói: "Chùa nhà ta có cái giếng này quý lắm. Nước rất ngọt. Có lẽ tôi nghiện trà tàu vì nước giếng chùa nhà đây. Tôi sở dĩ không đi đâu xa được, là vì không đem theo được nước giếng này đi để pha trà. Bạch sư cụ, sư cụ nhớ hộ tôi câu thề này: Là giếng chùa nhà mà cạn thì tôi sẽ lập tức cho không người nào muốn xin bộ đồ trà rất quý của tôi. Chỉ có nước giếng đây là pha trà không bao giờ lạc mất hương vị. Mà bạch cụ, chúng tôi không hiểu tại sao ngọn đồi này cao mà thủy lại tụ. Địa thế chùa này, xem ra còn dụng võ được...". Chừng như sợ cụ Sáu bàn rộng tới những chuyện không nên trao đổi với kẻ tu hành đã lánh khỏi việc của đời sống rồi, sư cụ vội nói lảng sang chuyện mấy cây mít nhà chùa năm nay sai quả lắm và kéo cụ Sáu vào trai phòng dùng một tuần nước. Theo một ước lệ rất đáng yêu đặt ra từ ngày mới làm quen với nhau, đã mười năm nay, bao giờ uống nước trà của nhà chùa, ông cụ Sáu cũng được cái vinh dự pha trà và chuyên trà thay chủ tự.
Dạo này, chắc ông cụ Sáu bận nhiều việc nên đã mấy tuần trăng rồi mà không thấy vãn cảnh chùa uống nước thăm hoa, để cho sư cụ, cứ nhìn mấy chậu mặc lan giờ trổ hoa mà tặc lưỡi mỗi khi cùng bất đắc dĩ phải ngắt cắm vào lọ con. Dạo này cụ Sáu chỉ cho người nhà xuống xin nước giếng thôi. Và trưa hôm nay lúc lặng ngắm hai thầy trò người con ông cụ Sáu đem nước ra khỏi chùa, lúc trở vào, nhà sư già thở dài cùng sư bác chờ đấy:
­— Ông cụ Sáu này, nếu không đam mê cái phong vị trà tàu, đam mê đến nhiều khi lầm lỗi, nếu ông ta bỏ được thì cũng thành một ông sư tại gia. Danh và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú quý nhãn tiền không bằng một ấm trà tàu. Nhưng một ngày kia, nếu không có trà tàu mà uống nữa thì cái ông cụ Sáu này sẽ khổ đến bậc nào. Phật dạy rằng hễ muốn là khổ. Biết đâu trong bốn đại dương nước mắt chúng sinh của thế giới ba nghìn sau đây lại chẳng có một phần to nước mắt của một ông già năng lên chùa nhà xin nước ngọt về để uống trà tàu. Mô Phật!

Ông cụ Sáu, hôm nay lấy làm thích cái người khách lạ đó lắm. Vì người khách vừa kể cho chủ nhân nghe một câu chuyện cổ tích. Lê trôn chén vào lợi chiếc đĩa cổ vài ba lần, người khách kể:
"— Ngày xưa, có một tên ăn mày cổ quái. Làm cái nghề khất cái là phải cầm bằng rằng mình không dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn chọn lựa từng cửa rồi mới vào ăn xin. Hắn toàn vào xin những nhà đại gia thôi và cố làm thế nào cho gặp mặt được chủ nhân rồi có gì thì hắn mới xin. Có một hắn lần vào đến nhà giữa một nhà phú hộ kia giữa lúc chủ nhân cùng một vài quý khách  đang ngồi uống trà buổi sớm. Mọi người thấy hắn mon men lên thềm, và ngồi thu hình ở chân cột một cách ngoan ngoãn, mọi người không nói gì cả, để xem tên ăn mày định giở trò gì. Hắn chả làm gì cả, chỉ nhìn mọi người khoan khoái uống trà. Hắn đánh hơi mũi, và cũng tỏ vẻ khoan khoái khi hít được nhiều hương trà nóng tản bay trong phòng. Thấy mặt mũi tên ăn mày đã đứng tuổi không đến nỗi bẩn thỉu quá, chủ nhân bèn hỏi xem hắn muốn xin cơm thừa hay canh cặn, hay là hơn nữa, hắn còn muốn đòi xôi gấc. Hắn gãi tai, tiến gần lại, tủm tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho phép hắn uống trà tàu với! Mọi người tưởng hắn điên. Nhưng tại sao không ai nỡ đuổi hắn ra và còn gọi hắn lại phía bàn cho hắn nhận lấy chén trà nóng. Hắn rụt rè xin lỗi và ngỏ ý muốn được uống nguyên một ấm trà mới kia. Hắn nói xong, giở cái bị ăn mày của hắn, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm. Thấy cũng vui vui và lạ lạ, mọi người lại đưa cho hắn mượn cả khay trà và phát than tàu cho hắn đủ quạt một ấm nước sôi, thử xem hắn định đùa với bọn họ đến bậc nào mới chịu thôi. Hắn xin phép đâu đấy rồi là ngồi bắt chân chữ ngũ, tráng ấm chén, chuyên trà từ chén tống sang chén quân, trông xinh đáo để. Lúc này không ai dám bảo hắn là ăn mày, mặc dầu quần áo hắn rách như tổ đỉa. Uống một chén thứ nhất xong, uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo nheo mắt lại, chép môi đứng dậy, chắp tay vào nhau và thưa với chủ nhân: "Là thân phận một kẻ ăn mày như tôi được các ngài cao quý rủ lòng thương, thực kẻ ty tiện này không có điều gì dám kêu ca lên nữa. Chỉ hiềm rằng bình trà của ngài cho nó lẫn mùi trấu ở trong. Cho nên bề dưới chưa lấy gì làm khoái hoạt lắm". Hắn lạy tạ, tráng ấm chén, lau khay hoàn lại nhà chủ. Lau xong cái ấm độc ẩm của hắn, hắn thổi cái vòi ấm kỹ lưỡng cất vào bị; thế rồi xách nón, xách gậy, vái chủ nhân và quan khách xong, xách gậy tập tễnh lên đường. Mọi người cho là một thằng điên không để ý đến. Nhưng buổi chiều hôm ấy cả nhà đều lấy làm sợ tên ăn mày vì ở lọ trà đánh đổ tung vãi ở mặt bàn, chủ nhân đã lượm được ra đến mươi mảnh trấu."

photo Internet
Ông cụ Sáu nghe khách kể đến đấy, thích quá, vỗ đùi mình, vỗ đùi khách, và kêu:
— Giá cái lão ăn mày ấy sinh vào thời này, thì tôi mời hắn ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có nhau mà thưởng thức trà ngon. Nhà, phần nhiều lại toàn là ấm song ẩm quý.
— Cổ nhân cũng bịa ra một chuyện cổ tích thế để làm vui thêm cái việc uống một tuần nước đấy thôi, chứ cụ tính làm gì ra những thứ người ấy. Ta chỉ nên cho nó là một câu giai thoại.
— Không, có thể như thế được lắm mà. Tôi chắc cái lão ăn mày này đã tiêu cả một cái sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn mới sành thế và mới đến nỗi cầm bị gậy. Chắc những thứ trà Bạch Mao Hầu và trà Trảm Mã hắn cũng đã uống rồi đấy ông khách ạ. Nhưng mà, ông khách này, chúng ta phải uống một ấm trà thứ hai nữa chứ. Chả nhẽ nghe một câu chuyện thú như thế mà chỉ uống với nhau có một ấm thôi.
Thế rồi trong khi cụ Sáu tháo bã trà vào cái bát thải cổ rộng miệng vẽ Liễu Mã, ông khách nâng cái ấm quần ẩm lên, ngắm nghía mãi và khen:
— Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức màu gan gà. "Thứ nhất Thế Đức gan gà; thứ nhì Lưu Bội; thứ ba Mạnh Thần". Cái Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa có cao mấy.
Cụ Sáu vội đổ hết nước sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò bay vào sát mặt khách:
— Ông khách có trông rõ mấy cái mấu sùi ở trong lòng ấm đồng không? Tàu gọi là cái kim hỏa. Có kim hỏa thì nước mau sủi lắm. Đủ năm cái kim hỏa đấy.
— Thế cụ có phân biệt được thế nào là nước sôi già và nước mới sủi không?
­— Lại "ngư nhãn, giải nhãn" chứ gì. Cứ nhìn tăm nước to bằng cái mắt cua thì là sủi vừa và khi mà tăm nước to bằng mắt cá thì là nước sôi già chứ gì nữa.
Chủ khách cả cười, uống thêm mỗi người hai chén nữa. Cụ Sáu tiễn khách ra cổng với một câu:
— Thỉnh thoảng có đi qua tệ ấp, xin mời ông khách ghé thăm tôi như một người bạn cũ. Mỗi lần gặp nhau, ta lại uống vài tuần nước. Hà, hà.

Năm ấy nước sông Nhĩ Hà lên to. Thảo nào mấy nghìn gốc nhãn trồng trên mặt đê quanh vùng, vụ đó sai quả lạ. Cái đê kiên cố đã vỡ. Nhưng vốn ở cuối dòng nước chảy xiết, nhà cửa cụ Sáu chưa đến nỗi bị cuốn phăng đi. Lúc nước rút, ở cái cổng gạch nguyên vẹn, hai mảng giấy hồng điều đôi câu đối dán cửa vẫn còn lành lặn và nét chữ vẫn rõ ràng:
    Họ lịch sự như tiên, phú quý như giời,
    quất con ngựa rong chơi ngoài ngõ liễu.
   Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất,
    gọi hề đồng pha nước trước hiên mai
Năm sau, quãng đê hàn khẩu, chừng hàn không kỹ, lại vỡ luôn một lần nữa. Cái cổng gạch nhà cụ Sáu vẫn trơ trơ như cũ. Nhưng lần này thì đôi câu đối giấy hồng điều, gió mưa đã làm bợt màu phẩm mực, ngấn nước phù sa đã phủ kín dòng chữ bằng những vạch ngang dày dặn.
Ông khách năm nọ — cái người kể câu chuyện tên ăn mày sành uống trà tàu — đi làm ăn xa đã mấy năm, nhân về qua vùng đấy, nhớ nhời dặn của cụ Sáu, đã tìm tới để uống lại với ông già một ấm trà tàu nữa. Nhưng người khách hỏi nhà ông đến, người khách đã bùi ngùi thấy người ta bảo cho biết rằng nhà cụ Sáu đã bán rồi. Thấy hỏi thăm tha thiết, người vùng ấy mách thêm cho ông khách:
— Có muốn tìm cố Sáu thì ông cứ xuống Chợ Huyện. Cứ đón đúng những phiên chợ xép vào ngày tám thì thể nào cũng gặp. Chúng tôi chỉ biết có thế thôi.
Phải, bây giờ ông cụ Sáu sa sút lắm rồi. Bây giờ ông cụ lo lấy bữa cơm ăn cũng khó, chứ đừng nói đến chuyện uống trà tàu. Thỉnh thoảng có xin được người nào quen một vài ấm trà, cụ lấy làm quý lắm: gói giấy, giắt kỹ trong mình, đợi lúc nào vắng vẻ một mình mới đem ra pha uống. Vẫn còn quen cái thói phong lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp mùa hoa nở, cụ lại còn cố bứt lấy ít nhị đem ướp luôn vào gói trà dắt trong mình, nếu đấy là trà mạn cũ.
Những buổi có phiên chợ, cụ Sáu ngồi ghé vào nhờ gian hàng tấm của người cùng làng, bày ra trên mặt đất có đến một chục chiếc ấm mà ngày trước, giá có trồng ngay cọc bạc nén cho trông thấy, chửa chắc cụ đã bán cho một chiếc. Có một điều mà ai cũng lấy làm lạ, là cụ bán lũ ấm đất làm hai lớp. Mấy kỳ đầu, cụ bán toàn thân ấm và bán rất rẻ. Còn nắp ấm cụ để dành lại. Có lần vui miệng, cụ ghé sát vào tai người bà con:
— Có thế mới được giá. Có cái thân ấm rồi, chẳng nhẽ không mua cái nắp vừa vặn sao? Bán thân ấm rẻ, rồi đến lúc bán nắp ấm, mới là lúc nên bán giá đắt.
Cụ Sáu cười hề hề, rồi vội quay ra nói chuyện với bạn hàng đang mân mê những cái thân ấm đất đủ màu, cái thì dáng giỏ dâu, cái thì múi na, hình quả vả, quả sung, v.v.
— Thế nào tôi cũng tìm được nắp cho ông. Cứ phiên sau lại đây thế nào cũng có nắp. Không, đúng ấm tàu đấy mà. Nếu không tin ông cứ úp ấm xuống mặt miếng gỗ kia, cho ấm ngửa trôn lên. Cứ xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm đều cắn sát mặt bằng miếng gỗ thì biết. Nếu muốn thử kỹ nữa, quý khách thả nó vào chậu nước, thấy nó nổi đều, cân nhau không triềng, thế là đích ấm tàu.